Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 130/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 130/2022/HS-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

108/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022; Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số 108/2022/TB-TA ngày 14/7/2022, đối với bị cáo:

Lê Tấn T, sinh năm 1984. Tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Số 5, khu D, ấp H, xã H, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn:

04/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Thiên chúa. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Văn V, sinh năm 1955 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1959. Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Bị cáo có vợ tên Hoàng Thu T, sinh năm 1985 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2007 và nhỏ nhất sinh năm 2014.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 18/5/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt vào ngày 16/12/2018.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/02/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ ngày 27/12/2021, T đang ở chòi nuôi gà tại ấp Hưng Long, xã Hưng Thịnh, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai thì Trương Văn D (bạn của T) đến chơi. Lúc này, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T mượn xe mô tô (không nhớ biển số xe) của D để đi mua ma túy nhưng không nói cho D biết. T điều khiển xe đến Công viên Ánh Sáng thuộc khu phố 3, thị trấn Trảng Bom, huyện Trảng Bom liên lạc và mua 01(một) gói ma túy đá với giá 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) của đối tượng tên Tư (không rõ nhân thân lai lịch). Sau khi mua được ma túy, T về chòi nuôi gà rủ D cùng sử dụng ma túy thì D đồng ý. T lấy một nữa gói ma túy vừa mua cho vào một cái nỏ thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy) rồi dùng quẹt ra đốt ở phía dưới nỏ rồi đưa vào miệng để hút. T và D cùng nhau hút mỗi người được 05 hơi thì hết ma túy trong nỏ. D ngồi chơi một lúc rồi về, T cất số ma túy còn lại để sau này sử dụng. Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 30/12/2021, Thảo (không rõ họ và địa chỉ) mang gà đến bán cho T, do biết Thảo cũng là người nghiện ma túy nên T rủ Thảo cùng sử dụng ma túy thì Thảo đồng ý, T lấy gói ma túy chưa sử dụng hết trước đó cho vảo nỏ thủy tinh rồi quẹt ga đốt để T và Thảo cùng sử dụng, mỗi người hút được 02 hơi thì Thảo ra về. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, khi Thảo vừa đi về thì D đến sửa xe cho T, thấy cái nỏ của T đang để trên bàn trong nỏ còn ma túy. D nói T cho D sử dụng thì T đồng ý. T đưa nỏ ma túy cho D hút 02 hơi, sau đó T hút thêm 01 hơi ma túy nữa. Lúc này trong nỏ vẫn còn ma túy, T cầm nỏ treo lên vách tôn căn chòi và ngồi nói chuyện với D thì lực lượng Công an huyện Trảng Bom phối hợp với Công an xã Hưng Thịnh kiểm tra phát hiện T và D vừa sử dụng ma túy nên lập biên bản kiểm tra.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) nỏ thủy tinh bên trong có dính tinh thể màu trắng và màu vàng đục được niêm phong vào phong bì có chữ ký của Lê Tấn T và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo J7 màu đỏ số sim 0982901011 của Lê Tấn T.

- 01 (một) súng bằng ống nhựa tự chế dài 90cm có quấn bang keo; 40 (bốn mươi) viên đạn chì; 20 (hai mươi) viên đạn bi kim loại được niêm phong vào thùng catton dán kín có chữ ký của Lê Tấn T và hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom.

* Tại Kết luận giám định số 2537/KLGĐ - PC09 ngày 06/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng và vàng đục được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,0231 gam, loại: Methamphetamine”.

* Tại kết luận giám định số 942/KL-KTHS ngày 31/3/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Công an đã kết luận: 01 (một) sung bằng ống nhựa tự chế dài 90cm có quấn băng keo; 40 (bốn mươi) viên đạn chì; 20 (hai mươi) viên đạn bi kim loại không phải là vũ khí quân dụng, không có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.

Tại cáo trạng số: 119/CT/VKS-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố Lê Tấn Thành về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Tấn T mức án từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong sau giám định số 2537/KLGĐ - PC09 ngày 07/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai; 01 (một) súng bằng ống nhựa tự chế dài 90cm có quấn băng keo;

40 (bốn mươi) viên đạn chì; 20 (hai mươi) viên đạn bi kim loại là đồ vật do T tự chế, không còn giá trị sử dụng.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Trong phần bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, tội danh và áp dụng điều luật:

Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận: Ngày 27/12/2021, Lê Tấn T cho Trương Văn D sử dụng trái phép chất ma túy. Sau đó đến khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 30/12/2021, Lê Tấn T đã có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, loại: Methamphetamine cho đối tượng tên Thảo (không rõ nhân thân lai lịch); đến khoảng 9 giờ ngày 30/12/2021, Lê Tấn T tiếp tục cho Trương Văn D sử dụng trái phép chất ma túy loại: Methamphetamine thì bị Công an huyện Trảng Bom phối hợp với Công an xã Hưng Thịnh kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Trảng Bom đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt về hạnh vi mua bán trái phép chất ma túy. Bị cáo có đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong sau giám định số 2537/KLGĐ - PC09 ngày 07/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai .

+ 01 (một) súng bằng ống nhựa tự chế dài 90cm có quấn băng keo; 40 (bốn mươi) viên đạn chì; 20 (hai mươi) viên đạn bi kim loại là đồ vật do T tự chế, không còn giá trị sử dụng.

- Trả lại cho Lê Tấn T 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ, số sim 0982901011 do bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội. [6] Về những vấn đề khác liên quan:

Đi với Trương Văn D đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

Đi với đối tượng tên Thảo là người T cho sử dụng ma túy (không rõ nhân thân lai lịch) và đối tượng tên Tư là người bán ma túy cho T (không rõ nhân thân lai lịch). Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Tấn Thành phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Tấn T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/02/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 phong bì niêm phong sau giám định số 2537/KLGĐ - PC09 ngày 07/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đồng Nai .

+ 01 (một) súng bằng ống nhựa tự chế dài 90cm có quấn băng keo; 40 (bốn mươi) viên đạn chì; 20 (hai mươi) viên đạn bi kim loại.

- Trả lại cho Lê Tấn T 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ, số sim 0982901011.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai) 3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Tấn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Lê Tấn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 130/2022/HS-ST

Số hiệu:130/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về