Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2022 tại phòng xét xử, Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 11/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2022, đối với các bị cáo:

Hoàng Thị Diệu L, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2001; nơi sinh: tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn 10, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T, sinh năm 1971 và con bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1982; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2021. Có mặt.

Hồ Quang K, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1998; nơi sinh: tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Thôn 3, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn L, sinh năm 1970 và con bà Trần Thị N, sinh năm 1975; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2021. Có mặt.

Nguyễn Trọng H, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2003; nơi sinh: tỉnh Đắk Nông; Nơi cư trú: Tổ dân phố 6, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1974 và con bà Lê Thị Thúy H, sinh năm 1981; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2021. Có mặt.

Nhân thân: Ngày 23/9/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 65/2021/HS-ST ngày 23/9/2021. Bị cáo chưa chấp hành án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1982 Địa chỉ: Tổ dân phố 2, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông. Có mặt.

Bà Lê Thị Thúy H, sinh năm 1981 Địa chỉ: Tổ dân phố 6, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt.

Chị Hồ Thị Thúy T, sinh năm 2001 Địa chỉ: Thôn 3, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 22/10/2021, Hoàng Thị Diệu L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias BKS 48K1-000.97 đi từ phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông đến xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để giải quyết công việc cá nhân. Khi đi đến ngã 3 N thuộc thôn 11, xã N, huyện Đ thì L gặp một người đàn ông tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch), là người quen biết ngoài xã hội với L. Lúc này, L dừng xe mô tô để nói chuyện với Đ. Trong quá trình nói chuyện, Đ hỏi L “có sử dụng ma túy không”, L trả lời “có” nên Đ đưa cho L 01 gói nilon bên trong chứa tinh thể màu trắng (là chất ma túy), 01 chiếc kéo kim loại và 02 ống hút bằng nhựa. Đ nói với L mang số ma túy trên về sử dụng, khi nào có tiền thì trả cho Đ. L cầm lấy những đồ vật trên bỏ vào bên trong chiếc túi xách đang đeo trên người rồi nảy sinh ý định đi đến thị trấn K, huyện Đ để sử dụng.

Do biết Nguyễn Trọng H thành phố G, tỉnh Đắk Nông cũng sử dụng ma túy nên L gọi điện thoại cho H rủ H đến thị trấn K, huyện Đ để cùng sử dụng ma túy nhưng H không nghe máy nên Linh gọi điện thoại cho Hồ Quang K, hỏi K có ở nhà không và nói cho K biết là L đang trên đường đi đến thị trấn K chơi. Sau khi L kết thúc cuộc gọi với K thì H gọi điện lại cho L, L nói H đón taxi đi đến thị trấn K để sử dụng ma túy cùng với L thì H đồng ý. Sau đó, L gọi cho K nói K tìm địa điểm để sử dụng ma túy. K đồng ý và nói L đến nhà nghỉ Đ thuộc tổ dân phố 8, thị trấn K, huyện Đ để sử dụng ma túy. Nghe xong thì L điều khiển xe mô tô chạy đến thị trấn K.

Sau khi đi đến thị trấn K thì L dừng xe lại chờ H, sau đó chở H đến nhà nghỉ Đ. Khi đến nơi L thông báo cho K biết. Khoảng 05 phút sau, K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 48H1-126.63 đến nhà nghỉ. Khi gặp L và H, K vào thuê phòng và trả tiền phòng hết 200.000 đồng. Sau đó L, H và K đi vào phòng nghỉ số 108 nhà nghỉ Đ. Tại đây, L để chiếc túi xách lên giường, mở túi lấy kéo và ống hút mà trước đó Đ đưa cho L ra rồi nói H và K tìm “nồi” (là dụng cụ để sử dụng ma túy). Lúc này, H nhớ là trên đường đi H có gặp M là bạn quen biết ngoài xã hội với H đang đứng ở cổng chào thị trấn K và biết M có “nồi” nên H lấy xe mô tô của L đi tìm M để mượn “nồi”. Khi gặp M, H hỏi mượn 01 đoạn ống thủy tinh (nồi), 01 quẹt ga và 01 đoạn ống hút bằng nhựa, M đồng ý rồi đưa cho H. H cầm lấy các vật dụng trên đưa về nhà nghỉ Đ, đồng thời H mua thêm 02 chai nước suối và 01 lon nước ngọt nhãn hiệu Sting. Khi H đi vào phòng nghỉ, L nói H ra cốp xe mô tô của L lấy 01 túi nilon bên trong chứa quần áo và 02 cái loa đưa vào cho L. Lúc này, K lấy 01 chai nước suối bằng nhựa do H mua, 01 đoạn ống hút bằng nhựa và “nồi” chế tạo thành một bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Sau đó, H lấy ma túy trong túi xách của L ra rồi đổ một phần vào “nồi” để sử dụng. Phần ma túy còn lại, H để trên giường. H và K sử dụng ma túy trước, còn L đang xem điện thoại. Lúc này, Công an huyện Đắk R’Lấp kiểm tra hành chính nhà nghỉ Đ, thấy vậy, Khãi cầm bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy, H cầm chiếc quẹt gas, L cầm gói ma túy ném ra ngoài qua cửa sổ phòng nghỉ để che giấu hành vi của mình. Tuy nhiên Công an Công an huyện Đắk R’Lấp đã phát hiện và bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan điều tra, các bị cáo đã khai nhận hành vi của mình như đã nêu trên.

Kết luận giám định số 156/KLMT-PC09 ngày 26/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Tinh thể rắn màu trắng đựng 01 gói nilon trong suốt, kích thước (9,0x5,0)cm được niêm phong trong bì thư ký hiệu “MẪU VẬT” gửi giám định là ma túy Methamphetamine, có khối lượng là 0,0908 gam.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, xử lý vật chứng:

01 gói nilon trong suốt, kích thước (9,0 x 5,0)cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng.

01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế, 01 quẹt ga, 01 chiếc kéo bằng kim loại, 01 ống hút bằng nhựa trong suốt, 02 ống hút bằng nhựa màu trắng, hồng.

01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone của bị cáo Hoàng Thị Diệu L.

01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone của bị cáoHồ Quang K.

01 xe mô tô nhãn hiệu Luvias BKS 48K1-000.97.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, BKS 48H1-126.63.

01 túi xách màu trắng, kích thước (23 x 19 x 15)cm.

01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone, số IMEI: 357270096992670 của chị Lê Thị Thúy H Tại bản cáo trạng số 16/CTr - VKS ngày 10 tháng 02 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử các bị can Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trong H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố các bị cáo về tội:“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là đúng và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trong H về tội“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H phạm tội“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Hoàng Thị Diệu L từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/10/2021 Bị cáo Nguyễn Trong H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án số 65/2021/HS-ST ngày 23/9/2021, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai bản án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/10/2021 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Hồ Quang K từ từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/10/2021 Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Đối với chiếc mô tô biển kiểm soát 48K1-000.97 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Bình; chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48H1-126.63 là tài sản hợp pháp của chị Hồ Thị Thúy T; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone có số IMEI: 357270096992670 là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị Thúy H nên ngày 25/12/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 02/QĐ-CSĐT, trả lại tài sản cho các chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone của Hoàng Thị Diệu L và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone của Hồ Quang K là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với 0,0712 gam ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định, 01 túi xách, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 quẹt ga, 01 chiếc kéo bằng kim loại, 03 đoạn ống nhựa là vật dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên toà các bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’lấp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Vào trưa ngày 22/10/2021 Hoàng Thị Diệu L gọi điện thoại rủ Hồ Quang K và Nguyễn Trọng H sử dụng chất ma túy thì K và H đồng ý. Sau đó K đã thuê phòng số 108 của nhà nghỉ Đ thuộc tổ dân phố 8, thị trấn K, huyện Đ với giá 200.000 đồng để làm địa điểm sử dụng trái phép chất ma túy. Tại nhà nghỉ Đ, L là người cung cấp chất ma túy; H là người cung cấp cho K 01 chai nước suối bằng nhựa, 01 đoạn ống thủy tinh (nồi) để K chế tạo thành một bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Sau đó, H lấy ma túy trong túi xách của L ra rồi đổ một phần vào “nồi” để sử dụng, phần ma túy còn lại H để trên giường. Khi H và K đang sử dụng ma túy, L đang xem điện thoại thì bị Công an huyện Đắk R’Lấp phát hiện, bắt quả tang.

Đối với bị cáo Nguyễn Trọng H ngày 23/9/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 65/2021/HS-ST ngày 23/9/2021, bị cáo chưa chấp hành án. Tuy nhiên, do thời điểm phạm tội bị cáo H chưa đủ 18 tuổi và bị kết án về tội ít nghiêm trọng nên được coi là không có án tích, vì vậy lần phạm tội này không thuộc trường hợp tái phạm.

Do đó, có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H phạm tội“Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

………………

b) Đối với 02 người trở lên”

[3]. Đánh giá tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật, làm mất trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, bị toàn xã hội lên án nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà các bị cáo đã gây ra để răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành một công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của các bị cáo vi phạm tình tiết định khung tăng nặng “Đối với 02 người trở lên” nên bị xét xử ở điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Hồ Quang K có ông nội Hồ T là người có công với cách mang được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, có bà nội Dương Thị T là người có công với cách mang được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về hình phạt:

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân biết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Nguyễn Trọng H ngày 23/9/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 65/2021/HS-ST ngày 23/9/2021, bị cáo chưa chấp hành án. Vì vậy cần áp dụng Điều 65 để tổng hợp hành hình phạt của hai bản án.

[7]. Về các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48K1-000.97 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị B; 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48H1-126.63 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Hồ Thị Thúy T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone có số IMEI: 357270096992670 là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị Thúy H không liên quan đến hành vi phạm tội, nên ngày 25/12/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 02/QĐ-CSĐT trả lại tài sản cho bà B và chị T là chủ sở hữu hợp pháp nên cần chấp nhận.

Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, màu vàng, số Imei 358756054006551

[8]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H và các biện pháp tư pháp là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận. Đối với bị cáo Đoàn Thị Diệu L, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ; phạm tội lần đầu; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi nên cần xử phạt bị cáo L mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[9]. Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (Căn cứ thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hồ Quang K):

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Diệu L 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/10/2021 Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 07 (bảy) năm tù.

Căn cứ Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án số 65/2021/HS-ST ngày 23/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Buộc bị cáo Nguyễn Trọng H phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 07 (bảy) năm tù 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/10/2021 Xử phạt bị cáo Hồ Quang K 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/10/2021

3. Các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 02/CQĐT ngày 25/12/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48K1- 000.97 cho bà Nguyễn Thị B là chủ sở hữu hợp pháp; trả chiếc xe mô tô biển kiểm soát 48H1-126.63 cho chị Hồ Thị Thúy T là chủ sở hữu hợp pháp; trả 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone có số IMEI: 357270096992670 cho chị Lê Thị Thúy H là chủ sở hữu hợp pháp.

Tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone, màu vàng, số Imei 358756054006551 đã qua sử dụng của bị cáo Hoàng Thị Diệu L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu iPhone màu vàng, số Imei 1: 357296099213053, số Imei 2: 357296099098025 đã qua sử dụng của bị cáo của Hồ Quang K.

Tịch thu tiêu hủy 0,0712 gam Methamphetamine (Mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 túi xách; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 quẹt ga; 01 chiếc kéo bằng kim loại; 03 đoạn ống nhựa.

(Các vật chứng có đặc điểm được mô tả như trong biên bản thu giữ vật chứng)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội: Buộc các bị cáo Hoàng Thị Diệu L, Hồ Quang K, Nguyễn Trọng H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

626
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về