Bản án về tội tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép số 156/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NNG

BẢN ÁN 156/2022/HS-PT NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC NHẬP CẢNH TRÁI PHÉP

Vào ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 104/2022/TLPT-HS ngày 01-03-2022 đối với bị cáo Trần Văn T cùng đồng phạm về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 20-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Văn T, sinh ngày 05-3-1990 tại Thanh Hóa.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn D, sinh năm 1957 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1959; có vợ Lê Thị V và 02 con; tiền án, tiền sự: không.

N2 thân: Ngày 05-3-2021, bị Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Cao Bằng truy nã về tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” theo quy định tại Điều 348 của Bộ luật Hình sự.

Ngày 15-3-2021 bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

2. Lương Xuân T1, sinh ngày 04-10-1992 tại Cao Bằng.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn T, sinh năm 1971 (đã chết) và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1971; có vợ Triệu Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; có mặt.

3. Nguyễn Văn N, sinh ngày 09-7-1976 tại Hà Nội.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Hà Nội; nơi tạm trú: thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1946 (đã chết) và bà Khuất Thị T, sinh năm 1953; có vợ Vũ Thị C, sinh năm 1977 và 03 con; tiền án, tiền sự: không.

N2 thân: Tại Bản án số 12/HSST ngày 29-4-2005 của Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ kết án 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Đánh bạc”.

Bị bắt ngày 26-2-2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

4. Khuất Duy N1, sinh ngày 09-09-1980 tại Hà Nội.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lái xe; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khuất Duy N, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1951; có vợ Dương Thị S, sinh năm 1990 và 03 con; tiền án, tiền sự: không.

Ngày 02-7-2021 bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

5. Lục Văn Q (Lục Ngọc Q), sinh ngày 31-7-1990 tại Cao Bằng.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ĐKHKTT: tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lục Tiền D, sinh năm 1959 (đã chết) và bà Ninh Thị N, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 06-3-2021 bị Công an tỉnh Cao Bằng tạm giữ về hành vi tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép đến ngày 15/3/2021 được Trả tự do. Ngày 02-7-2021 bị tạm giữ, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Hà Hữu N2 không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 06-02-2021 Công an phường Y, thành phố P tỉnh Gia Lai, phát hiện Li G (sinh ngày 08/5/2001, Quốc Tịch: Trung Quốc, nơi cư trú: tỉnh Thiễn Tây) nhập cảnh trái phép đến địa bàn thành phố P nên đưa đi cách ly tập trung tại Trung tâm Bồi dưỡng chính trị huyện I, đồng thời bàn giao đối tượng cho Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Gia Lai tiến hành xác minh, làm rõ. Đến ngày 19-02-2021 Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Gia Lai tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Phòng quản lý xuất nhập cảnh bàn giao và tiến hành điều tra về hành vi tổ chức cho người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, cụ thể như sau:

Trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019, Trần Văn T xuất cảnh sang Trung Quốc để làm công nhân tại tỉnh Quảng Châu nên T biết sử dụng và nói thành thạo tiếng Trung Quốc.

Đến tháng 01 năm 2021, một người đàn ông Trung Quốc (không rõ họ tên, địa chỉ), sử dụng tài khoản “Wechat” “Chu Trung Quoc ben cam” thuê T chở người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt Nam từ khu vực biên giới phía bắc rồi đưa sang Campuchia. Tuy nhiên, T chỉ đồng ý vận chuyển người Trung Quốc đến thành phố Hồ Chí Minh và thống nhất tiền công là 5.800NDT/người (tương đương khoảng 20.000.000đ/người).

Để chuẩn bị cho việc đưa người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào thành phố Hồ Chí Minh, Trần Văn T vào nhóm “Wechat” “Việt - Trung” và tìm được Nguyễn Văn N, có số điện thoại 0766.151.588, nên T liên lạc và thuê Nguyễn Văn N chở khoảng 08-10 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ huyện T, tỉnh Cao Bằng vào thành phố Hồ Chí Minh với giá 35 triệu/chuyến, nhưng Nam cho biết xe của Nam chở được 04 - 05 người, do đó T thống nhất với Nam gọi thêm xe để chở người vào thành phố Hồ Chí Minh, T yêu cầu Nam trên đường đi phải đảm bảo an toàn không được để Công an phát hiện. Nam gọi thêm Khuất Duy N1 (là em họ của N) lên huyện T, Cao Bằng chở người Trung Quốc vào thành phố Hồ Chí Minh cùng với N, N1 đồng ý.

Trần Văn T liên lạc thuê Lương Xuân T1 (là bạn bè quen biết với T từ tháng 7/2020) đón người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ khu vực đường biên chở đến giao cho Nguyễn Văn N. Tiền công là 500NDT/người (tương đương khoảng 1.800.000đ/người).

Từ ngày 24-01-2021 đến ngày 04-3-2021 Trần Văn T và các đồng phạm đã nhiều lần tổ chức cho nhiều người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N, sau đó xuất cảnh sang Campuchia như sau:

Lần thứ nhất: Vào ngày 24-01-2021 người đàn ông Trung Quốc thông báo cho T đón 08 người Trung Quốc và gửi tài khoản “Wechat” của người “dẫn biên” (là người dẫn đường cho người Trung Quốc đi vào lãnh thổ Việt N bằng đường tiểu ngạch), để T liên lạc đón người. Sau đó, T gửi cho T1 tài khoản “Wechat” của người “dẫn biên” và số điện thoại 0367.512.404 của Nguyễn Văn N để T1 liên lạc giao nhận người Trung Quốc.

Đến tối 25-01-2021, T1 điều khiển xe ô tô đi vào huyện T, tỉnh Cao Bằng đón 08 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ người “dẫn biên”, rồi liên lạc với N đến khu vực đường vào thác Bản Giốc để nhận người. N và N1 đến điểm hẹn nhận 08 người, 04 người lên xe của N, 04 người còn lại lên xe của N1.

Đến 01h50 ngày 26-01-2021, T chuyển cho N 20.000.000đồng vào số tài khoản 45110000360075 (ngân hàng B). N rút đưa cho N1 10.000.000đồng để N1 lo chi phí trên đường đi. Để tránh bị phát hiện chở người Trung Quốc nhập cảnh trái phép, N và N1 mua cơm hộp và nước uống đưa lên xe cho những người Trung Quốc này ăn; khi gặp chốt giao thông thì vẫy tay ra hiệu để họ cúi thấp người, nấp sau lưng ghế tài xế và ghế phụ, khi mệt thì dừng xe bên lề đường để ngủ. Ngày 27/01/2021 T chuyển cho N 20.000.000đồng.

Đến sáng ngày 27-01-2021, người đàn ông Trung Quốc gửi cho T số điện thoại (0356.329.724) của Hà Hữu N2 (là người nhận tại thành phố Hồ Chí Minh), còn T gửi cho người này số điện (0367.512.404) của Nguyễn Văn N.

Cùng ngày 27-01-2021, Hà Hữu N2 được cuộc gọi từ một người đàn ông sử dụng số điện thoại 0386.488.774 thông báo khi nhận được người Trung Quốc thì chở xuống huyện T, tỉnh An Giang, N2 đồng ý. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, người đàn ông (0386.488.774) gọi điện hỏi N2 tối nay đón người Trung Quốc ở đâu? N2 cho biết sẽ đón tại khu vực cầu Bình Phước, thành phố Hồ Chí Minh.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, N2 điều khiển xe ô tô đến điểm hẹn, nhìn thấy 08 người Trung Quốc từ xe của N và N1 bước xuống, 04 người trong số đó bước lên xe của N2, 04 người còn lại N2 không biết ai đón. N2 chở 04 người đi theo hướng về huyện T, tỉnh An Giang. Sau khi giao người xong N gọi điện báo cho T biết và yêu cầu T thanh toán 10.000.000 đồng còn lại và xin thêm T 1.500.000 đồng để hỗ trợ N1 nộp phạt vì trên đường đi vào thành phố Hồ Chí Minh xe của N1 bị Cảnh sát giao thông tỉnh Đăk Lăk bắn tốc độ. T đồng ý và chuyển cho N số tiền 11.500.000đồng (lúc 21h48 ngày 28-01-2021).

Trần Văn T báo cho người đàn ông Trung Quốc biết đã giao xong 08 người Trung Quốc, yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản “Wechat” của người làm dịch vụ đổi tiền (sống ở Trung Quốc) cho T. Sau đó, người làm dịch vụ, đổi thành tiền Việt N rồi gửi trả tiền công cho Lương Xuân T1 (qua tài khoản của người làm dịch vụ đổi tiền sống ở Cao Bằng). Số tiền còn lại, T yêu cầu người làm dịch vụ chuyển vào số tài khoản ngân hàng T (19035402334011) của vợ mình là Lê Thị V.

Đến khoảng 00h ngày 28-01-2021, Hà Hữu N2 chở 04 người Trung Quốc đến bến phà T, một người đàn ông khoảng 55 - 60 tuổi dẫn N2 đi dọc theo con sông khoảng 10km thì gặp người đàn ông (số điện thoại 0386.488.774) đưa cho N2 6.000.000 đồng và đưa 04 người Trung Quốc xuất cảnh sang Campuchia bằng đường thủy.

Lần tổ chức này T thu lợi được 74.100.000 đồng: T1 thu lợi được: 13.900.000 đồng, N thu lợi được 28.000.000 đồng, N1 thu lợi được: 16.500.000 đồng, N2 thu lợi được 4.700.000 đồng.

Lần thứ 2: Vào đêm ngày 28-01-2021, người đàn ông Trung Quốc thông báo T biết ngày 29-01-2021 đón 08 người Trung Quốc. T đồng ý và liên lạc Nguyễn Văn N lên huyện T, tỉnh Cao Bằng để nhận người, do N về không kịp nên thống nhất với T để T1 đưa người Trung Quốc xuống Hà Nội giao cho N và giá tiền công 02 xe là 60.000.000 đồng.

Đến sáng 29-01-2021, N gọi điện báo cho Khuất Duy N1 nhận 08 người Trung Quốc từ T1, còn N sẽ đợi ở cao tốc Ninh Bình. Đến tối 29/01/2021, T1 đến Bản Luông đón 08 người Trung Quốc từ người “dẫn biên” rồi chở đến cầu Thanh Trì giao cho N1, N1 chở 08 người Trung Quốc đến cao tốc Ninh Bình rồi chuyển cho N 04 người. Đến 10h23 ngày 30/01/2021, T chuyển vào số tài khoản 45110000360075 của N số tiền 30.000.000 đồng, N rút tiền mặt đưa cho N1 6.000.000đồng để lo chi phí trên đường.

Tối 30/01/2021, người đàn ông Trung Quốc thông báo cho Trần Văn T giao 08 người Trung Quốc cho Hà Hữu N2 như lần trước. T đồng ý và gọi điện báo cho Nguyễn Văn N.

Sáng ngày 31/01/2021, N1 điện thoại cho N2 thống nhất nơi nhận người là ngã tư đường p và cao tốc X. Cùng lúc đó, người đàn ông (0386.488.774) gọi điện hỏi N2 để hỏi địa điểm giao nhận người từ N, N1. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, khi đến địa điểm giao nhận, N và N1 thả 08 người Trung Quốc xuống xe, 04 người trong số đó bước lên xe của N2. Đến 11h44 ngày 31/01/2021, T chuyển vào tài khoản của N số tiền 30.000.000đồng.

Sau khi đón được 04 người Trung Quốc, N2 gọi điện báo cho người đàn ông (0386.488.774) biết, rồi chở đến huyện T, tỉnh An Giang, N2 chủ động đi chậm để giao người Trung Quốc vào buổi tối tránh bị người khác phát hiện. Đến khoảng 18 giờ ngày 31/01/2021, N2 giao 04 người Trung Quốc cho người đàn ông (số điện thoại 0386.488.774) và nhận 6.000.000 đồng, 04 người Trung Quốc xuống xuồng máy đi sang Campuchia.

Lần tổ chức này: T thu lợi được 60.000.000 đồng: T1 thu lợi được 38.400.000 đồng, N thu lợi được 28.000.000 đồng, N1 thu lợi được: 8.000.000 đồng, N2 thu lợi được 4.200.000 đồng.

Lần thứ 3: Vào ngày 03/02/2021, người đàn ông Trung Quốc thông báo cho Trần Văn T biết ngày 04/02 đón 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N. T đồng ý và trao đổi với Nguyễn Văn N địa điểm nhận người Trung Quốc tại Hà Nội và giá tiền công là 35.000.000 đồng. T liên lạc với Lương Xuân T1 đón 05 người Trung Quốc, rồi chở xuống Hà Nội giao cho Nguyễn Văn N.

Đến khoảng 23 ngày 04/02/2021, T1 đón được 05 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ người “dẫn biên” tại Bản Luông, rồi chở xuống Hà Nội, đến khoảng 04h ngày 05/02/2021 giao cho N tại cầu P, Hà Nội. N chở 05 người Trung Quốc đi vào thành phố Hồ Chí Minh, đến 11h10 phút ngày 05/02/2021, T chuyển vào số tài khoản của N số tiền 20.000.000đồng.

Đến khoảng 11h00 ngày 06/02/2021, vì quá mỏi chân do phải ngồi gập người ở phía sau, một người Trung Quốc tên Li G yêu cầu được lên ghế phụ để ngồi, nhưng không được 04 người Trung Quốc còn lại chấp nhận. Khi đến khu vực phường Y, thành phố P, Li G yêu cầu dừng xe để nghỉ ngơi, thì bị 04 người Trung Quốc còn lại đuổi xuống xe. N chở 04 người Trung Quốc còn lại vào thành phố Hồ Chí Minh vào giao cho người đàn ông có số điện thoại 0908.317.451, tại khu vực gần ngã tư An Sương, thành phố Hồ Chí Minh, sau đó N về Hải Phòng thì bị cách ly tập trung.

Sau khi xuống xe, Li G liên lạc với người đàn ông Trung Quốc đang sống tại Campuchia qua tài khoản (Wechat: “Sô Điền”) để yêu cầu giúp đỡ, người này bảo G liên lạc với người phụ nữ có tài khoản “Wechat” giangxuyen, nhưng người này không chở Li G đi vào thành phố Hồ Chí Minh được. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày Giang khi đi bộ đến khu vực ngã tư Biển Hồ thì bị Công an Phường Y phát hiện, đưa đến Trung tâm y tế Phường Y khai báo y tế và đưa đi cách ly tập trung.

Lần tổ chức này: T thu lợi được 40.000.000 đồng: T1 thu lợi được 23.700.000 đồng, N thu lợi được 24.000.000 đồng.

Lần thứ 4: Vào ngày 03/3/2021, người đàn ông Trung Quốc thông báo cho T đón 22 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép ở khu vực biên giới rồi chở vào thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời gửi cho T tài khoản “Wechat” của người dẫn biên là “Nguyễn Văn C” hoặc “Nguyễn Văn H” (T không nhớ rõ tài khoản “Wechat” của người “dẫn biên”). Sau đó, T liên lạc với T1 để đón 22 người Trung Quốc, nhưng sợ bị phát hiện nên T1 từ chối. Vì vậy, T liên lạc với Lục Văn Q để đón 22 người Trung Quốc từ người “dẫn biên” đến Nhà nghỉ X, tại huyện T, tỉnh Cao Bằng, do Q làm chủ.

Đến khoảng 04giờ ngày 04/3/2021, 22 người Trung Quốc đến nhà nghỉ X, sau đó T nhờ T1 mang 14.300.000đồng đưa cho Q. Đến khoảng 20giờ cùng ngày, phát hiện thấy lực lượng Công an nên Q yêu cầu 22 người Trung Quốc rời khỏi nhà nghỉ đến trốn ở vách núi phía sau Trường THPT T. Nhưng quá trình kiểm tra hành chính phát hiện có nhiều vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Trung Quốc trong các phòng nghỉ nên Q đã thừa nhận cho người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào ở tại nhà nghỉ và dẫn lực lượng Công an đến địa điểm 22 người Trung Quốc trốn đưa về trụ sở Công an xã D khai báo sự việc. Trong chuyến này, vì 22 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép chưa đến được thành phố Hồ Chí Minh nên T chưa nhận được tiền công.

Ngoài ra: Vào khoảng giữa tháng 02 năm 2021, do Nguyễn Văn N bị cách ly nên T lên “Wechat” tìm được một tài khoản có tên “Nhà xe Việt - Trung”. Qua trao đổi, nhà xe này đồng ý chở người Trung Quốc nhập cảnh trái phép. Sau đó, T cùng với Lương Xuân T1 thuê Nhà nghỉ X do Lục Văn Q làm chủ để cho nhiều người Trung Quốc nhập cảnh trái phép ở trong thời gian đón xe vào thành phố Hồ Chí Minh Từ giữa tháng 02 năm 2021 đến ngày 02/3/2021, Trần Văn T cùng với Lương Xuân T1, Lục Văn Q tổ chức đưa 04 - 05 lần, mỗi lần khoảng 10 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép ở khu vực biên giới đưa vào nhà nghỉ X của Lục Văn Q, rồi T1 chở người Trung Quốc xuống tỉnh Bắc Ninh giao cho nhà xe Việt - Trung đưa vào thành phố Hồ Chí Minh.

Vào các ngày 15/3/2021, 19/3/2021, 07/4/2021 và 02/7/2021, Trần Văn T, Lương Xuân T1, Hà Hữu N2 và Khuất Duy N1 ra đầu thú tại Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Gia Lai, đồng thời khai nhận toàn bộ hành vi tổ chức cho người khác nhập cảnh, xuất cảnh trái phép.

[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 12/2022/HS-ST ngày 20-01-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn T, Lương Xuân T1, Lục Văn Q, Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 phạm tội: “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; Bị cáo Hà Hữu N2 phạm tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”.

Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Trần Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/03/2021.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/02/2021.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Lương Xuân T1 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/3/2021.

+ Xử phạt bị cáo Lục Văn Q 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/7/2021 nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ tại Công an tỉnh Cao Bằng từ ngày 06/3/2021 đến ngày 15/3/2021.

+ Xử phạt bị cáo Khuất Duy N1 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/7/2021.

Bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Hà Hữu N2 05 (năm) tù về tội “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”, quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo luật định.

[3] Kháng cáo:

Ngày 25-01-2022 bị cáo Trần Văn T, bị cáo Lương Xuân T1, bị cáo Lục Văn Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 26-01-2022 bị cáo Nguyễn Văn N, bị cáo Khuất Duy N1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt [4] Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị cáo có kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về nội dung các kháng cáo: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về tố tụng: quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Trong khoảng thời gian từ tháng 01-2021 đến tháng 3-2021, các bị cáo Trần Văn T, Lương Xuân T1, Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1, Lục Văn Q đã tổ chức 04 lần đưa 43 người có quốc tịch Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ biên giới Trung Quốc vào Việt N, qua địa phận tỉnh Cao Bằng rồi vận chuyển bằng xe ô tô đưa vào thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo Hà Hữu N2 02 lần đưa 08 người Trung Quốc xuất cảnh trái phép từ thành phố Hồ Chí Minh - Việt N sang Cam Pu Chia. Các bị cáo thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội trên tổng cộng 373.500.000đồng. Ngoài ra quá trình điều tra còn chứng minh được: 03 bị cáo Trần Văn T, Lương Xuân T1 và Lục Văn Q từ giữa tháng 2-2021 đến ngày 2-3-2021 đã 4 - 5 lần tổ chức cho khoảng 40 - 50 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N, tuy nhiên không chứng minh được số lần, số người và số tiền thu lợi bất chính.

Bản án hình sự sơ thẩm đã quyết định các bị cáo Trần Văn T, Lương Xuân T1, Lục Văn Q, Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 đã phạm vào tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép” với tình tiết định khung “Đối với 11 người trở lên” theo điểm a khoản 3 Điều 348 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Văn T: bị cáo T là người chủ mưu, đã 04 lần tổ chức đưa 43 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N, thu lợi bất chính 174.100.000 đồng.

Bản án sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú, nộp tiền thu lợi bất chính, có cha, mẹ ruột được tặng Huân chương chiến sỹ vẻ vang và Huân chương chiến công; ngoài ra bị cáo T tự thú khai nhận thêm các lần phạm tội và đồng phạm nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, để xử phạt bị cáo T 08 năm 06 tháng tù là hợp lý. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T xuất trình Đơn xác nhận hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính nuôi sống gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú, đồng thời có Giấy xác nhận của địa phương là người tích cực tham gia các hoạt động phong trào, chưa có tiền án tiền sự; xuất trình biên lai đã nộp án phí hình sự sơ thẩm. Do có tình tiết giảm nhẹ mới, nên xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Đối với bị cáo Lương Xuân T1, là người giúp sức cho Trần Văn T, 03 lần đón 23 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép từ khu vực biên giới Việt N - Trung Quốc, sau đó giao cho Nguyễn Văn N và Khuất Duy N1, trong đó có đối tượng Li G, thu lợi bất chính 76.000.000 đồng.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Lương Xuân T1 đã “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú, nộp tiền thu lợi bất chính nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bản án hình sự sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt bị cáo 08 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, ở nơi có hoàn cảnh khó khăn, có nhân thân tốt, xuất trình biên lai đã nộp án phí hình sự sơ thẩm. Do được áp dụng thêm các tình tiết mới nên xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn N, Lục Văn Q, Khuất Duy N1:

Bị cáo Nguyễn Văn N là đồng phạm với Trần Văn T, bị cáo là người thực hành, có 03 lần chở 23 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N, thu lợi bất chính 80.000.000 đồng.

Bị cáo Lục Văn Q là đồng phạm với Trần Văn T, bị cáo đã tổ chức cho 22 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N thì bị phát hiện, thu lợi bất chính 10.000.000 đồng.

Bị cáo Khuất Duy N1 là đồng phạm với Trần Văn T, là người thực hành, có 02 lần chở 12 người Trung Quốc nhập cảnh trái phép vào Việt N, thu lợi 24.500.000 đồng.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 và Lục Văn Q phạm tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Khuất Duy N1 đầu thú; các bị cáo N1, Q, N đã nộp tiền thu lợi bất chính; bị cáo Nguyễn Văn N có cha ruột được tặng Huân chương chiến công, là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra bị cáo N tự thú khai nhận thêm các lần phạm tội và đồng phạm nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS.

Bản án hình sự sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên để quyết định mức hình phạt tù khởi điểm trong khung hình phạt bị truy tố, xét xử là đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 và Lục Văn Q.

[6] Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xem xét.

[7] Về án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Trần Văn T và Lương Xuân T1 không phải chịu; các bị cáo Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 và Lục Văn Q phải chịu mỗi bị cáo là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 và Lục Văn Q. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Văn T và Lương Xuân T1; sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Trần Văn T và Lương Xuân T1.

2. Về hình phạt đối với các bị cáo kháng cáo:

2.1- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Trần Văn T 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15-03-2021.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-02-2021.

2.2- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Lương Xuân T1 07 (bảy) năm 09 tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27-03-2021.

+ Xử phạt bị cáo Lục Văn Q 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-7-2021, nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giữ tại Công an tỉnh Cao Bằng từ ngày 06-3-2021 đến ngày 15-3-2021.

+ Xử phạt bị cáo Khuất Duy N1 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-7-2021.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Trần Văn T và Lương Xuân T1 không phải chịu; các bị cáo Nguyễn Văn N, Khuất Duy N1 và Lục Văn Q phải chịu mỗi bị cáo là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Đối với các Biên lai tạm thu án phí hình sự sơ thẩm của bị cáo Trần Văn T là 200.000 đồng tại Biên lai số 0000596 và của bị cáo Lương Xuân T1 là 200.000đồng tại Biên lai số 0000597, (đều không ghi ngày) của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai; được khấu trừ vào nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm của 02 bị cáo tại Bản án số 12/2022/HS-ST ngày 20-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép số 156/2022/HS-PT

Số hiệu:156/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về