Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 21/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM - TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 05/03/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 05 tháng 03 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1.A T, sinh ngày 04/01/2002 tại Kon Tum. Nơi cư trú: Thôn P, xã I, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Gia Rai; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông A Khết (Đã chết) và bà Y Jyưm (sinh năm 1977; Tiền án; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Kon Tum. (Có mặt).

2. A H, sinh ngày 06/02/1998 tại Kon Tum. Nơi cư trú: Thôn L, xã I, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Gia Rai; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông A Djữi (sinh năm 1959) và bà Y Lam (sinh năm 1956); Tiền án: 01, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Kon Tum. (Có mặt).

3. A S, sinh ngày 13/8/2001 tại Kon Tum. Nơi cư trú: Thôn P, xã I, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Gia Rai; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông A Sip (sinh năm 1962) và bà Y Yưn (sinh năm 1977); Tiền án; tiền sự: không; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Trần Thị G, sinh năm 1969 Trú tại: Số 185 B, thôn K, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Trần Đình H, sinh năm 1991.

Trú tại: Thôn Đ, xã C, thành phố Kon Tum (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng: Anh A C, sinh năm 1982.

Trú tại: Thôn P, xã C, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 02/10/2020, A T qua nhà A S mượn xe mô tô BKS 82H2-X để đi chở thì A S đồng ý. Sau khi đi nhậu xong, A T đã điều khiển xe chở theo A H cũng đi sang xã Chư Hreng, thành phố Kon Tum để mua ma túy. Khi tới nơi, A T đưa cho A H 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) để A H vào nhà của Trần Đình H (SN: 1991; Trú tại: Thôn Đăk Bông, xã Chư Hreng, thành phố Kon Tum) để mua. Sau khi mua được ma túy, cả hai chuẩn bị đi về thì gặp công an xã Chư Hreng đang đi tuần tra. Thấy A T và A H có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính, qua kiểm tra phát hiện A H đang cầm trên tay bên trái một gói tinh thể rắn màu trắng, đựng trong bì ni lông dán kín. A H và A T khai nhận đây là gói mà túy vừa mua được Trần Đình H. Công an xã Chư Hreng đã bàn giao các đối tượng cùng tang vật cho Đội CSKT-MT Công an thành phố Kon Tum đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong tang vật theo quy định.

Tại kết luận giám định số 204/KLGĐ-PC09 ngày 04/10/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Kon Tum, kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng (Ký hiệu M) được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,203 gam, là loại: Methamphetamine.

Vào ngày 24/10/2018, khi A S đang ngồi nhậu ở nhà rông thôn P, xã I, thành phố Kon Tum thì có một thanh niên (Không rõ nhân thân lai lịch) đến và hỏi A S có mua xe không bán cho. A S hỏi xe gì, có giấy tờ gì không thì người này nói xe trộm được, không có giấy tờ nên bán rẻ cho 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). A S đồng ý mua và về nhà lấy tiền để trả, người thanh niên này đưa cho A S xe mô tô BKS X-X (Nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng Sirius, màu sơn xanh bạc). Đây là xe mô tô của bà Trần Thị G (SN: 1969; Trú tại: 185 B, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum) cho con trai mình là Nguyễn Trần Quốc Tuân (SN: 23/08/2003; Trú tại: Thôn Kon Klor, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum) mượn đi chơi và bị mất trộm trước đó. Sau khi mua được xe, A S đến tiệm sửa xe của anh A C (SN: 1984; Trú tại: Thôn P, xã I, thành phố Kon Tum) xin BKS 82H2-X mang về nhà gắn vào xe mô tô vừa mua được, còn BKS X-X A S cất dưới gần giường trong nhà.

Tại kết luận định giá số 68/ĐG-TS ngày 10/11/2020 của Hội đồng ĐGTS- TTHS, kết luận: Giá trị của 01(Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu dáng sirius, màu sơn xanh bạc BKS X-38903; số khung RLCS5C6H0GY207442; số máy 5C6H207458 tính đến thời điểm bị chiếm đoạt là 14.482.000 đ (Mười bốn triệu bốn trăm tám mươi hai nghìn đồng).

Cáo trạng số 12/CT-VKSTPKT ngày 19/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum truy tố các bị cáo A T, A H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và A S về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo A T từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo A H từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo A S từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,203 gam, là loại: Methamphetamine (Số ma túy còn lại sau giám định là 0,196 gam Methamphetamine).

Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Kon Tum, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyeết định của Cơ quan t hành tố tụng, người t hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi truy tố của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo AT, A H và A S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình thể hiện:

Đối với A T và A H vào ngày 02/10/2020 A T đến nhà của A S mượn xe mô tô để đi chơi, được A S đồng ý cho mượn xe có BKS 82 H2- X. A T đã điều khiển xe tới chở A H và rũ A H đi đến nhà của Trần Đình H tại Thôn Đăk Bông, xã Chư Hreng, thành phố Kon Tum để mua ma túy về sử dụng thì A H đồng ý. Tại đây, A T đưa cho A H 300.000 đồng, H vào nhà của Trần Đình H mua ma túy, được Hoàng bán cho 01 một gói tinh thể rắn màu trắng, đựng trong bì ni lông dán kín. Sau khi mua được ma túy cả hai chuẩn bị đi về, thì bị Công an bắt quả tang về hành vi tàng trữ 0,203 gam Methamphetamine.

Đối với A S vào ngày 24/10/2018 đã mua xe mô tô BKS X-X của một thanh niên (chưa rõ nhân thân lai lịch). Mặc dù biết đây là xe trộm cắp được mà có nhưng A S vẫn mua. Sau đó A S đã thay BKS: X-X bằng BKS 82 H2- X để nhằm mục đích che dấu cơ quan chức năng và sử dụng làm phương tiện đi lại. Đến ngày 02/10/2020 A S cho A T mượn xe, sau đó A T sử dụng xe chở A H đi mua ma túy sử dụng thì bị cơ quan điều tra phát hiện thu giữ. Quá trình điều tra xác minh làm rõ chiếc xe mô tô của A S cho A T mượn có số khung RLCS5C6H0GY207442, số máy 5C6H207458 và BKS X-X là của bà Ngễn Thị G bị kẻ trộm lấy cắp bán cho A S trước đây.

Vì vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của A T và A H đã phạm“ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và hành vi của bị cáo A S đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi của các bị cáo:

Đối với A T và A H phạm tội“ Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” có tính chất đồng phạm giản đơn A T là người khởi xướng, A H là người thực hành.

Hành vi của các bị cáo A T, A H là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm Luật phòng chống ma túy mà còn là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự an toàn xã hội.

Đối với A S mặc dù không trực tiếp xâm phạm đến qền sở hữu tài sản của người khác nhưng hành vi của bị cáo đã tạo điều kiện, khuyến khích cho các đối tượng phạm tội thực hiện hành vi trộm cắp tài sản gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Kon Tum.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo A T, A S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo A H có 01 tiền án: Ngày 16/9/2019, bị bắt về hành vi trộm cắp tài sản. Tại bản án số 16/2020/HS- ST ngày 04/02/2020 của TAND thành phố Kon Tum xử phạt A H 08 (Tám) tháng tù. Đến ngày 16/05/2020, chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương tính đến đến thời điểm phạm tội mới bị cáo chưa được xóa án tích nên hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp“tái phạm” đây là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự được áp dụng giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Riêng bị cáo A S phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ ng hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, kết hợp với xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời răn đe và phòng ngừa tội phạm nói chung đối với các loại tội phạm này.

Về các tình tiết khác: Trong vụ án này có đối tượng Trần Đình H: Theo như lời bị cáo A H khai là người bán ma túy cho bị cáo, nhưng qua đối chất đối tượng Hoàng không thừa nhận đã bán ma túy cho H nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum không có đủ cơ sở xử lý đối với Hoàng. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum sẽ tiếp tục xác minh và xử lý sau là có căn cứ.

A S là người cho bị cáo A H mượn xe mô tô BKS 82 H2- X là phương tiện đi mua ma túy nhưng A S không biết nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum không xử lý A S theo q định của pháp luật là có căn cứ.

Đối với thanh niên là người bán xe mô tô BKS X X cho bị cáo A S, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý là có căn cứ.

Đối với A C là người đã cho bị cáo BKS 82 H2- X nhưng không biết việc A S xin BKS để gắn vào xe vừa mua được nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum không có căn cứ để đối với A C xử lý là có căn cứ.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 (Một) xe mô tô có số khung RLCS5C6H0GY207442, số máy 5C6H207458 và 01(Một) BKS X-38903 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum đã xác định được chủ sở hữu và trả lại cho chủ sở hữa là bà Trần Thị G là đúng thẩm quyền và đúng quy định pháp luật, nên HĐXX không đề cập.

- Đối với 0,196 gam Methamphetamine (Số ma túy còn lại sau giám định) bao gói mẫu vật trong bì thư số 204/KLGĐ-PC09 của phòng Kỹ thuật Hình Sự - Công an tỉnh Kon Tum là tang vật vụ án, là chất cấm lưu hành xét tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 Biển kiểm soát số 82 H2- X (chủ xe không có nhu cầu xin lại sử dụng), không còn giá trị sử dụng, xét tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 50.000 đồng của bị cáo A T do cơ quan điều tra tạm giữ đây là tiền không liên quan đến việc phạm tội, xét trả lại cho bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Trần Thị G đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo A S bồi thường gì thêm, nên HĐXX không xét.

- Về án phí: Các bị cáo A T, A H và A S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tên bố bị cáo A T (tên gọi khác: Tiên con), A H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và A S phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có“ 

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo A T (tên gọi khác: Tiên con) 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 02/10/2020.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo A H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 02/10/2020.

- Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo A S 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+Trả lại cho bị cáo A T 50.000 (Năm mươi nghìn đồng) tiền ngân hàng Nhà nước Việt nam (Theo giấy nộp tiền vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự thành phố Kon Tum ngày 05/10/2020);

+ Tịch thu tiêu hủy 0,196 gam (Không phẩy một trăm chín mươi sáu gam) Methamphetamine (Số ma túy còn lại sau khi giám định) bao gói mẫu vật trong phong bì số 204/GĐTP- PC09 của phòng Kỹ thuật Hình Sự - Công an tỉnh Kon Tum.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 Biển kiểm soát số 82 H2- X.

Tình trạng Vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/01/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Kon Tum với Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Kon Tum.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội q định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Các bị cáo A T, A H và A S mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Căn cứ các Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tên án (05/03/2021). Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về