TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 93/2023/HS-PT NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 60/2023/TLPT-HS ngày 24 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Phan Quốc B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 144/2023/HS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Phan Quốc B, sinh năm 1987 tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Khu phố B, phường H, thị xã H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn H, sinh năm 1966 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1964; vợ: Trần Thị Thanh T1, sinh năm 1993, có 01 con, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên c có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0313617136, đăng ký lần đầu ngày 13/01/2016, trụ sở đặt tại số A đường Đ, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh, người đại diện theo pháp luật là ông Lưu Hy V. Ngày 01/6/2018, Công ty ra quyết định số 01/2018/QĐ thành lập chi nhánh với tên gọi Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên C - Chi nhánh N, được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh số 0313617136 - 008, đăng ký lần đầu ngày 12/6/2018, trụ sở đặt tại Lô I, đường P, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Người đại diện theo pháp luật là ông Võ Trung T2.
Ngày 04/5/2021, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên C - Chi nhánh N ký hợp đồng lao động số 028165/HĐLĐ thời hạn 01 năm với Phan Quốc B, chức vụ nhân viên giao nhận, làm việc tại Bưu cục B1, địa chỉ số c đường Q, phường B, thị xã H, tỉnh Bình Định. B có nhiệm vụ nhận hàng hóa, bưu kiện tại Bưu cục 256B01, giao cho khách hàng, thu hộ tiền và cước vận chuyển, chuyển tiền về Bưu cục theo Thông báo số 09-18/TBCNNT ngày 16/10/2018 của Công ty. B được Công ty cấp cho một mã đăng nhập trên app ứng dụng J&T sprinter để quản lý các đơn hàng mà B đã nhận để đi giao. Khi giao hàng thành công thì B sẽ xác nhận trên hệ thống ứng dụng này cho Công ty biết.
Ngày 25/3/2022, B đến Bưu cục nhận các đơn hàng: mã vận đơn 842144659915, người nhận hàng là bà Huỳnh Thị T3; mã vận đơn 802042221597, người nhận là bà Trần Thị Thanh P. Đến ngày 29/3/2022, B giao hàng cho bà Trực thu hộ số tiền 1.500.000 đồng, giao cho bà P thu hộ số tiền 3.050.000 đồng. Ngày 28/3/2022, B nhận các đơn hàng: mã vận đơn 842144636256, 842145012573 và 842144242042, người nhận là bà Bùi Thị Kim L. Ngày 29/3/2022, B giao hàng cho bà L, thu hộ số tiền 6.915.000 đồng.
Sau khi giao hàng thành công, thu tiền xong nhưng B không báo trên App J&T Sprinter xác nhận đã giao hàng thành công và cũng không nộp tiền lại cho công ty C1 số tiền thu hộ của 05 đơn hàng trên tổng cộng 11.465.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2022/HS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã H đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 353; các điềm b, s khoản Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Quốc B 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 28/12/2022, bị cáo Phan Quốc B kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên đề nghị quan điểm giải quyết vụ án: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Quốc B, giảm cho bị cáo 03 tháng tù.
Bị cáo Phan Quốc B không bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong sơ vụ án thể hiện:
Bị cáo Phan Quốc B đã lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao chiếm đoạt của Công ty TNHH MTV C tổng số tiền 11.465.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tham ô tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 353 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phan Quốc B, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Cấp sơ thẩm đã xem xét toàn bộ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Phan Quốc B 12 tháng tù về tội “Tham ô tài sản” là phù hợp với các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có cung cấp thêm hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, tuy nhiên tại cấp sơ thẩm bị cáo đã được áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Quốc B, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phan Quốc B 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Bị cáo Phan Quốc B phải chịu 200.000đ án phí HSPT.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tham ô tài sản số 93/2023/HS-PT
Số hiệu: | 93/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về