Bản án về tội tham ô tài sản số 72/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THNH PHỐ VIỆT TRÌ, PHÚ THỌ

BẢN ÁN 72/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 6 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh P, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:81/2023/TLST- HS ngày 02/6/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2023/QĐXXST-HS ngày 06/6/2023 đối với bị cáo:

NGUYỄN THU H - sinh ngày 24/02/1988 tại thành phố V, tỉnh P. Nơi cư trú: Tổ 3A, khu H, phường D, thành phố V, tỉnh P; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Quang T - sinh năm 1957 và con bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1958; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không; Tiền án: Bản án số 160/2010/HS-ST ngày 27/8/2010 của Toà án nhân dân thành phố V xử phạt Nguyễn Thu H 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, H đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2012; Bản án số 115/2014/HSST ngày 25/6/2014 của Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh P xử phạt Nguyễn Thu H 39 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, H đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2018; Bản án số 23/2014/HSST ngày 25/7/2014 của Toà án nhân dân huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Thu H 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, H đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2018.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/12/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh P, có mặt.

- Người bị hại: Công ty cổ phần dịch vụ giao hàng nhanh, địa chỉ: 405/15 Xô Viêt Nghệ Tĩnh, phường 24, Quận B, thành phố H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Duy H - Chức vụ Tổng Giám Đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tuấn V - sinh năm 1995, địa chỉ:

phường Hồng H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái là nhân viên quản lý khu vực của Công ty (theo Giấy ủy quyền số: 1127/GUQ-GHN/2022 ngày 22/8/2022 của ông Lương Duy H Tổng Giám đốc Công ty), có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người liên quan:

+ Anh Lê Văn Q, sinh năm 1989, địa chỉ: khu Thành Công, phường M, thành phố V, tỉnh P, vắng mặt.

+ Anh Phạm Văn Ch, sinh năm 1994, địa chỉ: tổ 6A, phường B, thành phố V, tỉnh P, vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Quốc O, sinh năm 1994, địa chỉ: tổ 3B, khu H phường D, thành phố V, tỉnh P, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 22/8/2022, Công ty cổ phần dịch vụ G, chi nhánh P (gọi tắt là Công ty G) gửi đơn tố giác tội phạm đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố V, tố cáo nội dung: Trong quá trình thực hiện công việc được giao Nguyễn Thu H có hành vi chiếm đoạt số tiền 27.392.253 đồng; Lê Văn Q, sinh năm 1989 ở khu T, phường Mg, thành phố V, tỉnh P chiếm đoạt số tiền 18.156.552 đồng; Phạm Văn T, sinh năm 1994 ở Tổ 6A, phường Bạch Hạc, thành phố V, tỉnh P chiếm đoạt số tiền 7.086.811 đồng và Nguyễn Quốc O, sinh năm 1994, ở Tổ 3B, khu H, phường D, thành phố V, tỉnh P chiếm đoạt số tiền 11.847.901 đồng.

Sau khi nhận được đơn tố giác tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố V đã tiến hành xác minh và làm rõ hành vi của các đối tượng trên như sau:

Công ty G ký kết hợp đồng dịch vụ với Nguyễn Thu H, Lê Văn Q, Phạm Văn T và Nguyễn Quốc O với vai trò nhân viên phát triển thị trường của công ty. Công việc hàng ngày của nhân viên phát triển thị trường là tiếp nhận bưu kiện, bưu phẩm trên phần mềm M-PDS (phần mềm quản lý giao hàng do công ty yêu cầu) để trả đơn cho khách hàng theo địa chỉ, số tiền phải thu được thể hiện trong thông tin bưu kiện, bưu phẩm; sau khi giao hàng và thu tiền của khách hàng thì phải cập nhật trạng thái giao hàng thành trên phần mềm M-PDS, đến cuối ngày nộp lại toàn bộ số tiền đã thu được của khách hàng về Công ty G.

Ngày 29/4/2022, Nguyễn Thu H được Công ty G giao 52 bưu kiện, bưu phẩm để giao cho khách hàng với tổng giá trị là 27.392.253 đồng. Cuối ngày, sau khi giao hàng thành công 52 đơn hàng, thu được tổng số tiền 27.392.253 đồng, H đã cập nhật trạng thái giao hàng thành công trên phần mềm M-PDS, nhưng H không quay về công ty để giao nộp lại tiền mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên để chi tiêu cá nhân, rồi tự ý nghỉ việc nhằm trốn tránh trách nhiệm. Ngày 11/9/2022, Cơ quan điều tra triệu tập Nguyễn Thu H đến làm việc, tại cơ quan điều tra, H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

Về nguyên nhân, điều kiện động cơ mục đích dẫn đến hành vi phạm tội: Do muốn có tiền chi tiêu cá nhân nên Nguyễn Thu H đã chiếm đoạt số tiền mà bản thân có trách nhiệm thu lại từ khách hàng.

Về vật chứng, tài sản bị thu giữ: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm rõ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, màn hình bị vỡ, nứt, số imei 1: 869347031784916, imei 2: 869347031784908, gắn sim số 098458xxxx; đây là điện thoại của H dùng để liên lạc hàng ngày - hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng của Công an thành phố V. Tiền Việt Nam: 19.331.000 đồng, trong đó: số tiền 394.000 đồng của Nguyễn Thu H tự nguyện nộp để khắc phục hậu quả cho Công ty G; Số tiền 7.087.000 đồng do anh Phạm Văn T và số tiền 11.850.000 đồng do anh Nguyễn Quốc O tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra để hoàn trả lại cho Công ty G.

Đối với anh Lê Văn Q, Phạm Văn Tr: Ngày 09/8/2021, anh Q đã nhận 45 đơn hàng từ Công ty G, anh Q đã giao cho khách hàng và thu được số tiền 18.156.552 đồng. Ngày 13/01/2022, anh Tr đã nhận 16 đơn hàng từ Công ty G và đã giao cho khách hàng, thu được số tiền 7.086.811 đồng. Tuy nhiên đến cuối ngày anh Q và anh Tr làm rơi mất số tiền thu được, sau khi phát hiện làm mất, anh Q và anh Tr đã báo lại với Công ty theo đúng trình tự. Không có sự việc phạm tội xảy ra, dó đó Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Lê Văn Q và Phạm Văn T . Ngày 10/4/2023, anh Tr đã nộp số tiền 7.087.000 đồng cho Cơ quan điều tra để trả lại cho Công ty G.

Đối với anh Nguyễn Quốc O: Quá trình điều tra O khai nhận ngày 04/01/2022, O đã nhận 46 đơn từ Công ty G và đã giao thành công cho khách, thu được số tiền 11.847.901 đồng. Cùng ngày, O làm rơi mất số tiền này, nhưng không báo với Công ty theo quy định mà chỉ trao đổi sự việc với bà Trương Thị N, sinh năm 1964, trú tại: Tổ 3B, khu Hương Trầm, phường Dữu Lâu, thành phố V, tỉnh P là mẹ đẻ của Ovà xin tiền để trả lại cho Công ty nhưng do gia đình bà N chưa có tiền nên đến ngày 19/12/2022, anh O đã nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 11.850.000 đồng để hoàn trả lại cho Công ty G.

Cáo trạng số79/CT-VKS-HS ngày 02/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thu H về tội “Tham ô tài sản” theo Khoản 1 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1,5,6 Điều 353; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thu H từ 42 đến 45 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2022; hình phạt bổ sung: Tịch thu sung ngân sách nH nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, màn hình bị vỡ, nứt.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho Công ty cổ phần dịch vụ G số tiền 19.331.000 đồng, trong đó bị cáo Nguyễn Thu H nộp trả số tiền 394.000 đồng, anh Phạm Văn T nộp trả số tiền 7.087.000 đồng và anh Nguyễn Quốc Onộp trả số tiền 11.850.000 đồng; Tịch thu tiêu hủy sim số 098458xxxx của bị cáo H vì không còn giá trị sử dung.

- Về trách nhiêm dân sự: Căn cứ Khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; buộc bị cáo H phải trả cho Công ty G số tiền 27.392.253 đồng, xác nhận bị cáo H đã trả số tiền 394.000 đồng, bị cáo còn phải tiếp tục trả cho Công ty G số tiền 26.998.253đồng.

Về án phí bị cáo Nguyễn Thu H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.350.000 đồng án phí dân sự trong án hình sự.

- Về án phí bị cáo Nguyễn Thu H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong án hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu, không có ý kiến gì về quyết định truy tố và không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác. Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để có cơ hội sửa chữa tội lỗi của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về những căn cứ xác định tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thu H đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để khẳng định: Ngày 29/4/2022, Nguyễn Thu H là nhân viên phát triển thị trường của Công ty cổ phần dịch vụ G - chi nhánh P, lợi dụng việc được giao nhiệm vụ giao hàng và thu tiền của khách hàng, H đã chiếm đoạt số tiền 27.392.253 đồng của Công ty G rồi sử dụng hết vào mục đích cá nhân. Do đó bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

hành vi nêu trên của Nguyễn Thu H đã phạm vào tội “Tham ô tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Điều 353 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài NH nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. hành vi của Nguyễn Thu H là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu, uy tín của Công ty và hoạt động đúng đắn của Công ty cổ phần dịch vụ G được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, nên cần phải xử phạt nghiêm để giáo dục riêng với bị cáovà phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo: Bị cáo H có nhân thân xấu, bị cáo đã bị Toà án xét xử 03 lần về tội trộm cắp tài sản và tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, chưa được xoá án tích lại tiếp tục phạm tội, do đó lần phạm tội này của bị cáo được tính là tái phạm nguy hiểm, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên khi xem xét hình phạt cũng giảm nhẹ một phần cho bị cáo.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giảm dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung:

Khoản 5 Điều 353 của Bộ luật Hình sự còn quy định: “Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Qua xác minh của Cơ quan điều tra Công an thành phố V thì thấy bị cáo Nguyễn Thu H có 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, màn hình bị vỡ, nứt, nên áp dụng hình phạt bổ sung là tịch thu nộp ngân sách nH nước.

[6] Về xử lý vật chứng:

Sim số 098458xxxx là vật không có giá trị sử dung nên tịch thu tiêu hủy; Đối anh Phạm Văn Chung ngày 10/4/2023 đã nộp số tiền 7.087.000 đồng và anh Nguyễn Quốc Ongày 19/12/2022 đã nộp số tiền 11.850.000đồng cho Cơ quan điều tra để trả lại cho Công ty G, hiện đang gửi giữ tại tài khoản của Cơ quan thi hành án, nên cần trả lại cho Công ty G hai khoản tiền nêu trên.

[7] Về trách nhiêm dân sự: Cần buộc bị cáo phải hoàn trả lại số tiền chiếm đoạt cho Công ty. Xác nhận bị cáo đã giao nộp số tiền 394.000đồng để trả cho Công ty, bị cáo còn phải tiếp tục trả lại số tiền còn thiếu cho Công ty.

[8] Các vấn đề khác:

Đối với anh Phạm Văn C, anh Nguyễn Quốc Ovà anh Lê Văn Q: quá trình điều cơ quan điều tra xác định không có sự việc phạm tội, nên không đề cập xử lý đối với cả 03 người trên. Anh C và anh Ođã nộp trả đủ tiền cho công ty, công ty không yêu cầu trả khoản tiền nào khác. Còn anh Q chưa nộp trả Công ty, nếu Công ty có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án dân sự trong án hình sự theo quy định của pháp luật.

Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V là phù hợp, nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, 5, 6 Điều 353; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thu H phạm tội “ Tham ô tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Thu H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2022;

Về hình phạt bổ sung: Tịch thu nộp ngân sách nH nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đỏ, màn hình bị vỡ, nứt, số imei 1: 869347031784916, imei 2: 869347031784908.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2, điểm 1, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự

- Trả lại cho Công ty cổ phần dịch vụ G số tiền 19.331.000 (Mười chín triệu ba trăm ba mươi mốt nghìn đồng), trong đó của bị cáo Nguyễn Thu H nộp trả số tiền 394.000đồng, anh Phạm Văn T nộp trả số tiền 7.087.000đồng và anh Nguyễn Quốc O nộp trả số tiền 11.850.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy sim số 0984.585.535 của bị cáo Nguyễn Thu H vì không còn giá trị sử dung.

3. Về trách nhiêm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 30 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 589, Điều 357 của Bộ luật Dân sự và Điều 26 của Luật thi hành án dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Thu H phải trả cho Công ty cổ phần dịch vụ G số tiền 27.392.253đ (Hai mươi bảy triệu ba trăm chín mươi hai nghìn hai trăm năm mươi ba đồng), xác nhận bị cáo đã giao nộp số tiền 394.000đ (Ba trăm chín mươi tư nghìn đồng) hiện đang tạm giữ tại Cơ quan thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh P, bị cáo còn phải trả cho Công ty số tiền 26.998.253đ (Hai mươi sáu triệu chín trăm chín mươi tám nghìn hai trăm năm mươi ba đồng).

(Theo Biên bản giao vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố V ngày 05/6/2023 và Biên lai thu tiền số: 0000161 ngày 05/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh P).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thu H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.350.000đ (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự trong án hình sự.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, được quyền kháng cáo để yêu cầu xét xử phúc thẩm, người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ, hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 72/2023/HS-ST

Số hiệu:72/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về