Bản án về tội tham ô tài sản số 47/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 47/2023/HS-ST NGÀY 28/08/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2023/TLST- HS ngày 03 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2023, đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn T - Sinh năm 1982.

ĐKNKTT: Thôn M, xã M, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; Trình độ học vấn: 12/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố: Nguyễn Tiến N (đã chết). Mẹ: Lê Thị C; gia đình có 05 anh chị em, T là con thứ tư; Vợ: Vũ Thị Tr, có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: - Ngày 19/01/2017, bị Toà án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong bản án ngày 30/10/2018.

- Ngày 26/4/2023, bị Toà án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Hiện bị can đang chấp hành án tại Trại giam Phú Sơn 4 Thái Nguyên.

Bị cáo hiện nay đang chấp hành án tại Bản án số: 40/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của TAND huyện Mê Linh, Hà Nội, tại Trại giam Phú Sơn 4, tỉnh Thái Nguyên. Có đơn xin xử vắng mặt.

- Bị hại: Công ty TNHH vận tải và thương mại xăng dầu T. Đại diện tham gia tố tụng: Ông Phạm Văn M - sinh năm 1987.

Địa chỉ: Số 15 Đ, phường S, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Văn T - sinh năm 1960.

Địa chỉ: H, phường B, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có Mặt.

2. Lục Hoàng G - sinh năm 1987.

Địa chỉ: Khu đô thị S, phường A, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

3. Nguyễn Văn T1 - sinh năm 1974.

Địa chỉ: Thôn Q, xã K, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

4. Phạm Thị H1 - sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

5. Trương Công H2 - sinh năm 1971.

Địa chỉ: Tổ dân phố B, phường V, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 11 năm 2022, Nguyễn Văn T được công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T, địa chỉ số 09, đường Triệu Quốc Đạt, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nhận vào làm nhân viên thử việc bán xăng, dầu tại Cửa hàng xăng dầu V thuộc tổ dân phố Nam Bắc, phường V, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa (không ký kết hợp đồng), cùng làm việc với T tại cửa hàng xăng dầu là ông Nguyễn Văn T. T và ông T được anh Lục Hoàng G là Cửa hàng trưởng Cửa hàng xăng dầu V giao nhiệm vụ bán xăng, dầu cho khách đến mua, thu tiền của khách và bảo quản, cất giữ tiền để bàn giao cho công ty và làm việc theo ca, mỗi người bán hàng một ngày, nghỉ một ngày, bàn giao ca vào sáng ngày kế tiếp (bàn giao tiền bán hàng ca mình bán cho ca sau). Tiền bán hàng được để trong két sắt đặt tại cửa hàng khi nào có nhân viên của công ty đến thu tiền thuộc ca bán hàng của ai thì người đó trực tiếp giao tiền.

Ngày 21/11/2022 ông Nguyễn Văn T bán xăng dầu được tổng số tiền là 70.308.000 đồng (Bảy mươi triệu, ba trăm linh tám nghìn đồng), ông T ghi chép vào sổ giao ca rồi dùng giấy trắng bọc số tiền 70.308.000 đồng lại, dán băng keo cố định bên ngoài, ghi số tiền ra mặt ngoài tờ giấy. Sau đó ông T bỏ bọc tiền vào két sắt khoá cửa két sắt và cất chìa khoá két sắt vào hộp điện trên tường phòng làm việc.

Khoảng 07 giờ ngày 22/11/2022, T đến nhận ca bán hàng từ ông T, ông T đưa cho T 1.000.000 đồng tiền mệnh giá thấp để đưa lại tiền thừa cho khách. T bán hàng đến 21 giờ cùng ngày thì đóng cửa và thu được số tiền bán xăng, dầu là 10.950.000 đồng (Mười triệu, chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Khoảng 05 giờ ngày 23/11/2022, T thức dậy đi vào phòng làm việc để chốt sổ và lấy chìa khóa trong hộp điện trên tường phòng làm việc mở két sắt bỏ số tiền 10.950.000đồng T bán xăng dầu ngày 22/11/2022 vào trong két sắt cùng số tiền bán xăng dầu của ông T rồi đóng két sắt lại. Lúc này, T nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền bán hàng ngày 21/11/2022 và 22/11/2022 là 81.258.000đồng. T mở cửa két sắt và cầm bọc tiền bán hàng ngày 21/11/2022 của ông T và tiền bán hàng ngày 22/11/2022 do T đứng bán bỏ vào túi quần bên trái rồi T đi ra bàn uống nước đưa cho ông T 1.000.000 đồng tiền có mệnh giá thấp để đưa lại cho khách, sau đó điều khiển xe môtô Honda Wave RSX của T đi lên BigC Thanh Hóa, bắt xe khách ra Hà Nội. Trên đương đi T lấy bọc tiền bán hàng ngày 21/11/2022 của ông T ra đếm thì đếm được số tiền là 70.308.000 đồng.

Khi đến Hà Nội, T sử dụng hết toàn bộ số tiền 81.258.000 đồng để thuê nhà nghỉ, ăn uống và mua ma tuý về sử dụng. Đến ngày 31/12/2022, Nguyễn Văn T bị Công an huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội bắt giữ, xử lý về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 23/11/2022, anh Nguyễn Văn T1 là nhân viên của công ty T đến cửa hàng xăng dầu V để thu tiền bán xăng, dầu ngày 21 và 22/11/2022. Lúc này, ông T vào phòng làm việc mở két sắt để lấy tiền giao cho anh T1 thì phát hiện toàn bộ tiền trong két sắt đã bị mất. Ông T gọi điện thoại cho T nhưng báo thuê bao không liên lạc được.

Vào hồi 08 giờ 30 phút ngày 24/11/2022, anh Phạm Văn M là đại diện theo pháp luật của công ty T đã đến Công an phường V, thành phố Sầm Sơn tố giác hành vi phạm tội của Nguyễn Văn T.

Nhận được tố giác về tội phạm, Công an phường V, thành phố Sầm Sơn đã tiến hành xác minh sự việc, chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sầm Sơn tiến hành điều tra xử lý.

Cơ quan CSĐT Công an thành phố Sầm Sơn đã thu thập 01 USB chứa các tệp video thu tại cửa hàng xăng dầu V; thu thập chữ viết của Nguyễn Văn T trên sổ sách ghi chép tại Cửa hàng và tiến hành trưng cầu giám định.

Tại Kết luận giám định số: 1366/KL-KTHS ngày 06/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Không phát hiện dấu vết chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 02 (hai) tệp video của 01 (một) USB gửi giám định.

Kết luận giám định số: 2452/KL-KTHS ngày 28/6/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các chữ số ghi tại bảng cuối Tr đánh số 9 cột “ngày tháng” đề “22/11” (trừ chữ viết, chữ số “Xả E xăng 40 000” trong sổ giao ca của cửa hàng xăng dầu V với chữ viết, chữ số đứng tên Nguyễn Văn T tại các mẫu so sánh kí hiệu từ M1 đến M3 là do cùng một người viết ra.

Về trách nhiệm dân sự: Đến nay Nguyễn Văn T chưa bồi thường số tiền 81.258.000 đồng mà T đã chiếm đoạt của công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T.

Cáo trạng số: 51/CTr-VKS-HS ngày 01 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn, truy tố Nguyễn Văn T, về tội “Tham ô tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 353; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; 38; 56 Bộ luật hình sự, về tội “Tham ô tài sản”; xử phạt Nguyễn Văn T, mức án từ 30 đến 36 tháng tù cộng với 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của Bản án số: 40/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của TAND huyện Mê Linh, Hà Nội và tổng hợp hình phạt đối với Nguyễn Văn T.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc Nguyễn Văn T, phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 81.258.000đồng cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T.

Về án phí: Buộc Nguyễn Văn T, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị hại không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát mà đề nghị xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật và yêu cầu Nguyễn Văn T, phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 81.258.000đồng cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, những người tham gia tố tụng trong vụ án không ai có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi của Cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Khoảng 05 giờ ngày 23/11/2022, Nguyễn Văn T, là nhân viên thử việc bán xăng, dầu cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T tại Cửa hàng xăng dầu V thuộc tổ dân phố Nam Bắc, phường V, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, T đã có hành vi tham ô chiếm đoạt số tiền 81.258.000đồng của công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T, đến nay chưa bồi thường.

Quá trình điều tra T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác trong vụ án. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, truy tố Nguyễn Văn T, về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 353 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: T là nhân viên bán xăng dầu cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T nhưng đã có hành vi chiếm đoạt là tài sản do mình được giao quản lý. T đã lợi dụng trách nhiệm quản lí tài sản được giao nhằm chiếm đoạt bằng thủ đoạn lấy chìa khóa trong hộp điện trên tường phòng làm việc mở két sắt và chiếm đoạt số tiền 81.258.000đồng, sau đó rời khỏi vị trí làm việc. Khi bị cơ quan chức năng phát hiện bắt giữ T đã tiêu sài hết số tiền đến nay vẫn chưa bồi thường cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T. Hành vi của T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản và làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T, gây mất trật tự xã hội, cần phải được xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu. Mặc dù đã chấp hành xong các Quyết định của các bản án trước nhưng không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà ngày càng bất chấp pháp luật lấn xâu vào con đường phạm tội. Trong vụ án này tài sản chiếm đoạt được là 81.258.000 đồng đến nay chưa trả lại cho đơn vị bị hại. Đơn vị bị hại yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm trả lại số tiền cho đơn vị bị hại. Tuy nhiên, quá trình điều tra thành khẩn khai báo và có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự tại Cục quân y thuộc Tổng cục hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam từ năm 2003 đến năm 2005 nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo nhưng xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải khắc phục lại 81.258.000 đồng cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T.

Về án phí: Xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 353; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; 38; 56 Bộ luật hình sự; Điều 61; 62; 136; 331; 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584; 585; 586; 357 Bộ luật dân sự.

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Nguyễn Văn T, phạm tội“Tham ô tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Văn T, 36 (Ba muơi sáu) tháng tù và cộng với 18 tháng tù của Bản án số: 40/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của TAND huyện Mê Linh, Hà Nội. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai Bản án buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chấp hành là 54 (Năm mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 31/12/2022 của Bản án số 40/2023/HS-ST ngày 26/4/2023 của TAND huyện Mê Linh, Hà Nội.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải có trách nhiệm trả lại số tiền 81.258.000 đồng cho công ty TNHH Vận tải và Thương mại xăng dầu T.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật nếu bị cáo Nguyễn Văn T không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì ngoài số tiền phải thi hành án, bị cáo T còn phải chịu thêm khoản tiền lãi xuât chậm trả theo thỏa thuận hoặc theo quy đinh của pháp luật tương ứng với số tiền và thời gian thi hành án.

Về án phí: Buộc Nguyễn Văn T, phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 4.062.900đồng (Bốn triệu, không trăm sáu mươi hai nghìn chín trăm đồng) tiền án phí dân sự.

Về quyền kháng cáo: Bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 47/2023/HS-ST

Số hiệu:47/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về