Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 158/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 158/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 121/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trung H, sinh năm 1995 tại Thành phố F; Địa chỉ thường trú và cư trú tại: Số A đường số B, khu phố C, phường D, thành phố E, Thành phố F; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1956 và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1958; Có vợ và 01 con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 19 tháng 10 năm 2021. (Có mặt)

2. Nguyễn Tiến N, sinh năm 1995 tại Thành phố F; Địa chỉ thường trú và cư trú tại: Số A Đường số B, khu phố C, phường D, thành phố E, Thành phố F; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1960; Có vợ và 01 con sinh năm 2015; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt tạm giam từ ngày 19 tháng 10 năm 2021. (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Văn T; Địa chỉ: Số A đường số B, phường C, thành phố D, Thành phố E (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 19/10/2021, Nguyễn Trung H nảy sinh ý định bao bạn bè sử dụng chất ma túy, nên H gọi điện thoại cho Nguyễn Tiến N (đều là người nghiện ma túy) và nói H sẽ đi mua ma túy đem đến nhà N để sử dụng, N đồng ý. Sau đó N gọi điện rủ Trần Văn T đến nhà N để cùng sử dụng ma túy. Sau khi gọi điện thoại cho N, H gọi điện thoại số 0395440060 cho Trần Huy T để mua 500.000 đồng ma túy đá, T hẹn H đến phía sau trụ sở Ban chỉ huy quận đội thành phố Thủ Đức trên đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi để mua ma túy. H điều khiển xe máy hiệu Honda Click, biển số: 59B1- 695.13 đi từ nhà đến phía sau trụ sở Ban chỉ huy quận đội thành phố Thủ Đức chờ một lúc thì T đi xe mô tô (không rõ hiệu và biển số) đến, H đưa 500.000 đồng cho T và nhận 01 gói ma túy từ T, H cầm ma túy cho vào túi quần trước bên phải đang mặc và điều khiển xe mô tô đi đến nhà Nam ở số 19/8 đường số 21, khu phố 1, phường Bình Trưng Tây, thành phố Thủ Đức. Tại đây, H đem số ma túy vừa mua vào phòng ngủ của N lại lầu 1 và lấy ma túy để xuống nền nhà. N đi xuống tầng trệt vào nhà vệ sinh lấy dụng cụ sử dụng ma túy (do H đưa trước đó vào ngày 18/10/2021) sau đó đem lên lầu 1 đưa cho H. T bóc gói ma túy lấy 01 phần cho vào dụng cụ sử dụng ma túy, H châm lửa và hút đầu tiên sau đó chuyển ma túy cho T hút, T hút xong thì đưa ma túy cho N hút. Đến khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày, trong lúc H, N, T đang sử dụng ma túy thì bị Công an phường Bình Trưng Tây kiểm tra, bắt quả tang thu giữ 01 gói ma túy và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy dưới nền nhà trong phòng ngủ của N. Xét nghiệm ma túy đối với Nguyễn Tiến N, Nguyễn Trung H, Trần Văn T, cả 03 đều dương tính với ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Nguyễn Trung H, Nguyễn Tiến N, Trần Văn T khai nhận hành vi phạm tội như trên. Ngoài ra cả 03 còn khai nhận vào khoảng 20 giờ ngày 18/10/2021, H đã mua 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng của T sau đó H đã mang ma túy và bộ dụng cụ hút ma túy đến nhà N tổ chức cho N, T sử dụng hết số ma túy trên tại nhà của N.

Qua xác minh trên cơ sở lời khai của H, lúc 16 giờ 45 phút ngày 19/10/2021, tại trước nhà số 61, đường số 7, khu phố 1, phường Thạnh Mỹ Lợi, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã kiểm tra hành chính Trần Huy T, phát hiện trong túi quần Jean phía trước của T có 01 gói nylon chứa ma túy, T khai là ma túy đá mua về để sử dụng nên đã đưa T về Công an phường Thạnh Mỹ Lợi, thành phố Thủ Đức lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, xác định T là người nghiện ma túy. Khoảng 16 giờ ngày 19/10/2021, T điều khiển xe môtô biển số 59L2-546.97 đi đến khu phố Tam Đa, phường Trường Thạnh, thành phố Thủ Đức gặp 01 thanh niên tên H (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy hàng đá giá 700.000 đồng với mục đích sử dụng. Sau khi mua ma túy, T cất vào trong túi quần Jean phía trước rồi điều khiển xe môtô đi về đến trước nhà số 61, đường số 7, khu phố 1, phường Thạnh Mỹ Lợi, Thành phố Thủ Đức thì bị bắt quả tang. T không thừa nhận hành vi bán ma túy cho H, số điện thoại di động T sử dụng là 0772084072, qua kiểm tra điện thoại di động của T thì không thể hiện việc đã liên lạc với số điện thoại di động của H. Do ngoài lời khai duy nhất của H về việc đã mua ma túy của T ra thì không còn bất kỳ chứng cứ, tài liệu nào khác thể hiện việc T đã bán ma túy cho H nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra, Viện kiểm sát đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và truy tố đối với T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” trong 01 vụ án khác.

Kết luận giám định số 5673 ngày 28/10/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nilon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Trung H và hình dấu Công an phường Bình Trưng Tây, Thành phố Thủ Đức gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1852 gam, loại Methamphetamine.

Vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus thu giữ của Trần Văn T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus thu giữ của Nguyễn Tiến N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax thu giữ của Nguyễn Trung H; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 vỏ chai nước hiệu Aquafina, bằng nhựa; 01 ống hút bằng nhựa dài 20 cm màu đỏ, trắng; 01 nỏ hút bằng ống thủy tinh hình phễu đã bị vỡ phần nỏ thu giữ của Nguyễn Trung H; Mẫu vật còn lại sau khi phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,1353 gam được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra - 5673-1266/21; 01 xe máy hiệu Honda Click, biển số:

59B1-695.13 thu giữ của Nguyễn Trung H do H đứng tên chủ sở hữu.

Cáo trạng số 136/CT-VKSTPTĐ ngày 07/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố các bị cáo: Nguyễn Trung H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; Nguyễn Tiến N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo Nguyễn Tiến N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Áp dụng các điểm c khoản 1 Điều 249, điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Trung H từ 01 năm - 1 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 07 năm 06 tháng - 08 năm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt: từ 08 năm 06 tháng - 09 năm 06 tháng tù; Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn Tiến N 07 năm 06 tháng - 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng; Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên và không tự bào chữa; Các bị cáo nói lời sau cùng biết lỗi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận vào khoảng 12 giờ 15 phút ngày 19/10/2021, nhằm để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, Nguyễn Trung H đã có hành vi tàng trữ lượng 0,1852 gam ma túy loại Methamphetamine và cùng Nguyễn Tiến N tổ chức cho Trần Văn T sử dụng trái phép chất ma túy tại nhà của N, địa chỉ số 19/8, đường số 21, khu phố 1, phường Bình Trưng Tây, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị bắt quả tang. Ngoài ra trong quá trình điều tra đã xác định khoảng 20 giờ ngày 18/10/2021 cũng tại nhà của N, Nguyễn Trung H và Nguyễn Tiến N đã tổ chức cho Trần Văn T sử dụng trái phép chất ma túy.

[3] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích muốn thỏa mãn động cơ cá nhân nên vẫn cố tình phạm tội với lỗi cố ý. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, phù hợp với sự thật khách quan của vụ án đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, số lượng ma túy H phải chịu trách nhiệm hình sự là 0,1852 gam loại Methamphetamine và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Tiến Nam phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Như vậy quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hội, vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh, có một mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo, cai nghiện ma túy cho bị cáo và đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus thu giữ của Trần Văn T; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus thu giữ của Nguyễn Tiến N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, 01 xe máy hiệu Honda Click, biển số: 59B1-695.13 thu giữ của Nguyễn Trung H do Nguyễn Trung H đứng tên chủ sở hữu là công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước; Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 vỏ chai nước hiệu Aquafina, bằng nhựa; 01 ống hút bằng nhựa dài 20 cm màu đỏ, trắng; 01 nỏ hút bằng ống thủy tinh hình phễu đã bị vỡ phần nỏ thu giữ của Nguyễn Trung H là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy; Mẫu vật còn lại sau khi phục vụ giám định: Tinh thể không màu có khối lượng 0,1353g cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về các vấn đề khác: Đối với Trần Văn T, kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy, nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã giao về địa phương và Quyết định xử phạt hành chính 750.000 đồng. Đối với bà Nguyễn Thị Ngọc M là chủ sở hữu nhà số 19/8, đường số 21, khu phố 1, phường Bình Trưng Tây, thành phố Thủ Đức không biết và không liên quan đến việc H, N, T sử dụng chất ma túy từ ngày 18/10/2021 đến ngày 19/10/2021 tại nhà bà M, do bà M bị cách ly Covid tại bệnh viện từ ngày 09/10/2021 đến ngày 27/10/2021 nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bà M là có cơ sở.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Nguyễn Tiến N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng các điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Trung H 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; Tổng hợp hình phạt buộc Nguyễn Trung H phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 10 năm 2021.

2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Tiến N 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 10 năm 2021.

3. Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, màu xám, màn hình bị vỡ, không có sim, Imei: 353332071277263; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, Imei: 359215072405963, số sim: 0778945041;

01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, màu đen, Imei: 356714113311134, số sim: 0975457555; 01 xe máy hiệu Honda Click, biển số: 59B1-695.13, số máy: KF35E1017220, số khung: MLHKF3508L5117220.

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong có khối lượng 0,1353g có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra là mẫu vật còn lại sau khi phục vụ giám định, mã vụ 5673-1266/21; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 vỏ chai nước hiệu Aquafina, bằng nhựa; 01 ống hút bằng nhựa dài 20 cm màu đỏ, trắng; 01 nỏ hút bằng ống thủy tinh hình phễu đã bị vỡ phần nỏ.

(Theo Phiếu nhập kho số NK22/026C ngày 27/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức)

4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án sơ thẩm có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 158/2022/HS-ST

Số hiệu:158/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về