Bản án về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM THUẬN BẮC, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 99/2021/HS-ST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 67/2021/HS.ST ngày 14/5/2021; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST-HS ngày 21/6/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2021/HSST-QĐ ngày 05/7/2021 đối với các bị cáo:

1/ NGUYỄN HOÀI Đ – Tên gọi khác: Két; Giới tính: Nam; Sinh năm 1995; Nơi sinh: Bình Thuận; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn D, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 11/12; Cha: Nguyễn Hoài N, sinh năm 1957, Mẹ: Nguyễn Thị Thu N, sinh năm 1955. Hiện cả hai làm nông ở thôn D, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo Đ là con thứ sáu. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Hàm Thuận Bắc từ ngày 11/01/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

2/ LÊ XUÂN L - Tên gọi khác: C; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1993; Nơi sinh: Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn S, xã H1, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Dân tộc: Kinh; Quốc Tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Nhân viên bảo vệ rừng; Trình độ văn hóa: 9/12; Cha: Lê Tất H, sinh năm 1963; Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1962. Hiện cả 2 làm nông ở thôn 3, xã E, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo L là con thứ ba. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Bị cáo có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Nguyễn Văn L – Sinh năm 1994.

Địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

2/ Đỗ Tấn T – Sinh năm 1997.

Địa chỉ: Thôn D1, xã T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

3/ Liêu Ngọc N – Sinh năm 2000.

Địa chỉ: Thôn D1, xã T, huyện H,, tỉnh Bình Thuận.

4/ Phạm Văn T – Sinh năm 2002.

Địa chỉ: Thôn D2, xã T, huyện H,, tỉnh Bình Thuận.

5/ Nguyễn Thanh T– Sinh năm 1996.

Địa chỉ: Thôn 2, xã T1, huyện H,, tỉnh Bình Thuận.

6/ Huỳnh Thiên H– Sinh năm 1963.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện huyện H, tỉnh Bình Thuận.

7/ Nguyễn Thị Thu N – Sinh năm 1955.

Địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện H,, tỉnh Bình Thuận.

Tất cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ, ngày 11/01/2021, Lê Xuân L (Chim), sinh năm 1993, ở thôn S, xã H, huyện H, (là cán bộ Ban quản lý rừng phòng hộ Sông Quao) do có nhu cầu sử dụng ma túy (ma túy đá) nên dùng số điện thoại 0563.671.324 của mình gọi cho Nguyễn Hoài Đ (Két), sinh năm 1995, ở thôn D, xã T cùng huyện Hàm Thuận Bắc theo số 0862.471.017 để hỏi mua ma túy, L nói “Có đồ không?” (nghĩa là L hỏi Đ có ma túy đá để bán không?), Đ trả lời “Có”, L nói tiếp “Để cho cái hai”, (nghĩa là L muốn mua của Đ 01 tép ma túy đá giá 200.000đ), Đ nói “Chờ xíu chạy về”, L nói “Đang đứng trước nhà nè”, (nghĩa là L đang đứng trước nhà Đ), Đ nói “Nhà đang có bà bầu”, L nói lại “Để xuống Cầu Lăng đợi”, nói xong L tắt máy và điều khiển xe mô tô 86B3-360.54 (xe của anh Nguyễn Thanh T làm chủ sở hữu) đến địa điểm vừa hẹn với Đ. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, Đ điều khiển xe mô tô biển số 86B3-516.57 mang theo trong người 04 tép ma túy đá đi đến khu vực Cầu Lăng thuộc thôn Dân Hòa cùng xã Thuận Hòa. Thấy Đ đến, L đưa 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đ cho Đ, Đ nhận tiền cất vào túi quần sau, rồi lấy ra 01 tép ma túy đá đưa cho L, L cất tép ma túy vào túi áo khoác. Cùng lúc này qua công tác trinh sát nắm tình hình Công an huyện Hàm Thuận Bắc phối hợp Công an xã Thuận Hòa phát hiện bắt quả tang hành vi mua bán trái phép chất ma túy giữa Đ và L, Công an huyện Hàm Thuận Bắc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời thu giữ trong túi áo khoác bên phải của Lê Xuân L 01 gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước (03x1,3)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng là ma túy đá L vừa mua của Đ để sử dụng. Thu giữ trong túi quần sau bên trái của Nguyễn Hoài Đ có 03 gói nylon không màu, được hàn kín, có cùng kích thước (03x1,3)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng và trong túi quần phía sau bên phải của Đ số tiền 750.000đ (trong đó có 200.000đ là tiền vừa bán ma túy đá cho L) cùng 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xám gắn sim số 0862.471.017, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius màu đỏ đen, biển số 86B3 – 516.57, 01 giấy CMND mang tên Lê Xuân L, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh – đen, gắn sim số 0563.671.324 và sim số 0948.058.715, 01 xe mô tô hiệu Honda dream biển số 86B3 – 360.54. Nguyễn Hoài Đ khai nhận 03 gói nylon bị thu giữ trong túi quần sau bên trái là ma túy đá, Đ cất giữ mục đích để sử dụng riêng khi lên cơn nghiện (không dùng vào mục đích mua bán).

Đến 15 giờ 45 phút cùng ngày (11/01/2021), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Hoài Đ, thu giữ 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, bên trên màn hình và mặt lưng có dòng chữ SAMSUNG tại hộc tủ đầu giường ngủ trong phòng của Nguyễn Hoài Đ, Đ khai nhận đây là điện thoại của Nguyễn Văn L (Tèo Gà), sinh năm 1994, ở thôn D, xã T, huyện H, đem đến cầm thế để mua ma túy đá của Nguyễn Hoài Đ về sử dụng vào tối ngày 10/01/2021.

Quá trình điều tra đã xác định ngoài lần Nguyễn Hoài Đ đã bán trái phép chất ma túy cho Lê Xuân L vào ngày 11/01/2021 ra, Nguyễn Hoài Đ còn 03 lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn Lệ và Đỗ Tấn Tiễn. Cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Khoảng 10 giờ ngày 10/01/2021, Nguyễn Văn L (Tèo Gà), sinh năm 1994, ở thôn D, xã T dùng số điện thoại 0924.278.427 gọi cho Đ theo số 0862.471.017 để hỏi mua ma túy, Lệ nói: “Có đồ không, còn 100, lấy cái hai được không?”, (nghĩa là Lệ có 100.000đ, muốn mua một tép ma túy đá giá 200.000đ, nợ lại 100.000đ), Đ hỏi “Chừng nào trả?”, Lệ nói “mai trả”, Đ nói Lệ đến nhà để giao ma túy. Đến khoảng 10 giờ 10 phút cùng ngày, Lệ đến bên sân nhà Đ, Đ lấy 01 tép ma túy đá đã chuẩn bị sẵn trước đó mang ra bán cho Lệ lấy 100.000đ như đã thỏa thuận, Lệ lấy tép ma túy về sử dụng hết.

- Lần thứ hai: Khoảng 22 giờ, ngày 10/01/2021, Đ đang ở nhà, Lệ tiếp tục dùng số điện thoại 0924.278.427 gọi cho Đ theo số 0862.471.017 để hỏi mua ma túy, Lệ nói “Còn đồ không?”, (nghĩa là Lệ muốn mua ma túy đá), Đ trả lời “Có”, Lệ nói “giờ làm cho cái 100.000đ, lúc sáng còn thiếu 100.000đ, đưa cái điện thoại cho mày giữ, mai trả 200.000đ lấy điện thoại” (nghĩa là Lệ muốn mua một tép ma túy đá giá 100.000đ, sáng ngày 10/01/2021 Lệ còn thiếu nợ 100.000đ tiền mua ma túy đá, Lệ muốn cầm thế điện thoại để mua ma túy, sáng mai ngày 11/01/2021 sẽ trả tiền và chuộc lại điện thoại), Đ đồng ý và hẹn Lệ đến nhà để nhận ma túy. Khoảng 10 phút sau, Lệ đến bên sân nhà, Đ cầm 01 tép ma túy đá giá 100.000đ ra giao, Lệ đưa điện thoại di động, hiệu Samsung màn hình cảm ứng màu đen cho Đ như đã hẹn rồi lấy tép ma túy đi về sử dụng.

- Lần thứ ba: Khoảng 13 giờ, ngày 11/01/2021, Đ đang đào gốc cây củi tại khu vực rừng đoạn Km 36 đường Quốc lộ 28 thuộc thôn D, xã T, Đỗ Tấn T (Vịt), sinh năm 1997, ở thôn Dâ cùng xã T, dùng số điện thoại 0868.869.684 gọi cho Đ hỏi mua ma túy, T nói “Có đồ không, còn 150.000đ, anh em ngồi chơi”, (nghĩa là: T muốn mua 01 tép ma túy đá giá 150.000đ để cùng những người khác sử dụng), Đ nói “còn”, rồi kêu T đến khu vực nơi Đ đang làm để nhận ma túy. Do T không biết đường nên Đ nói T nhờ Liêu Ngọc N (B), sinh năm 2000, ở thôn D cùng xã T dẫn T đi (khi nói chuyện điện thoại với T thì Đ nghe có tiếng N nói chuyện). Khoảng 10 phút sau T cùng N đến gặp Đ, lúc này Đ lấy ra 01 tép ma túy đá giá 150.000đ đã chuẩn bị sẵn trước đó giao cho T và lấy số tiền như đã thỏa thuận, có được ma túy đá T và N lấy ra cùng sử dụng tại chỗ.

Ngoài ra, Nguyễn Hoài Đ còn khai nhận còn một đến hai lần trước đó đã bán ma túy đá cho Lê Xuân L nhưng không nhớ rõ cụ thể ngày và địa điểm bán ma túy đá.

Về nguồn gốc số ma túy đá của Nguyễn Hoài Đ có để bán cho các con nghiện và để sử dụng riêng, Đ khai nhận là mua của đối tượng tên Đ ở khu vực chợ Văn Thánh thuộc thành phố Phan Thiết vào chiều ngày 09/01/2021 với số tiền 800.000đ (theo lời khai của Đ).

Tại bản Kết luận giám định số 49/KLGĐ-PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

...

II. Đối tượng giám định 1. Mẫu cần giám định:

a. Phong bì ký hiệu 1, được niêm phong, còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Đỗ Trọng H; Vũ Đức T; Phan Văn H; Vũ Thành T; Nguyễn Hoài Đ; Lê Xuân L, hình dấu tròn màu đỏ của Công an xã Thuận Hòa. Trong phong bì có 03 (ba) gói nylon không màu, đều được hàn kín, bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M1).

b. Phong bì ký hiệu 2, được niêm phong, còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Đỗ Trọng H; Vũ Đức Th; Phan Văn H; Vũ Thành T; Nguyễn Hoài Đ; Lê Xuân L, hình dấu tròn màu đỏ của Công an xã Thuận Hòa. Trong phong bì có 01 (một) gói nylon không màu, được hàn kín, bên trong đều chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2).

...

V. Kết luận giám định:

Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,4410 gam; là Methamphetamine. Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,1294 gam; là Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định:

- Gói nylon như đã nêu tại mục II.1a và 0,4069 gam mẫu M1 được niêm phong trong phong bì số 49/1, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

- Gói nylon đã nêu tại mục II.1b và 0,1015 gam mẫu M2 được niêm phong trong phong bì số 49/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

- 03 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,4069 gam mẫu M1 được niêm phong trong phong bì số 49/1; 01 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,1015 gam mẫu M2 được niêm phong trong phong bì số 49/2 (phong bì số 49/1 và số 49/2 đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận).

- 01 điện thoại di động, hiệu Iphone màu xám, màn hình bị vỡ có chứa sim số 0862.471.017 (của Đ); 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, bên trên màn hình và mặt lưng có dòng chữ Samsung (của Lệ); 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh đen có chứa sim số 0563.671.324, 0948.058.715 (của L); 01 xe mô tô biển số 86B3-516.57, nhãn hiệu SIRIUS màu đỏ đen và số tiền 750.000 đồng (của Đ trong đó có 450.000đ tiền bán ma túy có được).

Toàn bộ số vật chứng trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã ra Quyết định chuyển vật chứng, chuyển từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc bảo quản, chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 77/CT –VKSHTB ngày 13/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố Nguyễn Hoài Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Lê Xuân L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các bị cáo Nguyễn Hoài Đ và Lê Xuân L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s, r Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Phạt Nguyễn Hoài Đ vtội “Mua bán trái phép chất ma túy” từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Phạt Nguyễn Hoài Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” từ 01năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng: Điều 55 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt tù đối với Đ từ 08 năm đến 09 năm tù.

Áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Phạt Lê Xuân L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 và Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- 03 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,4069 gam mẫu M1 được niêm phong trong phong bì số 49/1 và 01 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,1015 gam mẫu M2 được niêm phong trong phong bì số 49/2 (phong bì số 49/1 và số 49/2 đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận).

Đối với 01 điện thoại di động, hiệu Iphone màu xám, màn hình bị vỡ có chứa sim số 0862.471.017(của Đ); 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, bên trên màn hình và mặt lưng có dòng chữ Samsung (của Lệ); 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh đen có chứa sim số 0563.671.324, 0948.058.715 (của L); 01 xe mô tô biển số 86B3-516.57, nhãn hiệu SIRIUS màu đỏ đen và số tiền 450.000 đồng (của Đ) đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước. Hoàn trả lại cho Đ số tiền 300.000đ.

Tất cả các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Hoài Đ và Lê Xuân L khai nhận về hành vi phạm tội của các bị cáo đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại Tòa phù hợp lời khai tại Cơ quan điều tra Công an huyện Hàm Thuận Bắc, các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ và được thẩm tra tại phiên tòa. Đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/01/2021 tại Km 30+700m dốc Cầu Lăng, trên đường Quốc lộ 28 thuộc thôn Dân Hòa, xã Thuận Hòa, huyện Hàm Thuận Bắc, Công an huyện Hàm Thuận Bắc phối hợp với Công an xã Thuận Hòa kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Hoài Đ vừa bán trái phép 01 tép ma túy đá (01 gói nylon không màu, được hàn kín, kích thước (03x1,3)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng) cho Lê Xuân L có khối lượng qua giám định là 0,1294 gam, là Methamphetamine, L mua ma túy mục đích để sử dụng. Ngoài ra, còn thu giữ trên người của Đ 03 tép ma túy đá (03 gói nylon không màu, được hàn kín, có cùng kích thước (03x1,3)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng) có khối lượng qua giám định là 0,4410 gam, là Methamphetamine, số ma túy này Đ cất giấu trái phép nhằm mục đích để sử dụng.

Ngoài ra, trong ngày 10 và chiều ngày 11/01/2021, Nguyễn Hoài Đ còn 03 (ba) lần bán trái phép chất ma túy cho người khác, cụ thể: Khoảng 10 giờ ngày 10/01/2021, Nguyễn Hoài Đ bán trái phép cho Nguyễn Văn L (Tèo Gà), sinh năm 1994, ở thôn D, xã T 01 tép ma túy đá với giá 200.000đ. Đến khoảng 22 giờ, cùng ngày 10/01/2021, Đ tiếp tục bán trái phép cho Nguyễn Văn L (Tèo Gà) 01 tép ma túy đá với giá 100.000đ. Đến khoảng 13 giờ, ngày 11/01/2021, Đ tiếp tục bán trái phép cho Đỗ Tấn T (Vịt), sinh năm 1997, ở thôn Dân Lễ cùng xã Thuận Hòa 01 tép ma túy đá với giá 150.000đ .

Bị cáo Nguyễn Hoài Đ đã có hành vi mua bán ma túy nhiều lần, đây là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo Đ còn có hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng có khối lượng qua giám định là 0,4410 gam, là Methamphetamine được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Nguyễn Hoài Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của Lê Xuân L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo Nguyễn Hoài Đ và Lê Xuân L là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hoàn toàn nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hại cho bản thân và cộng đồng vì ma túy là chất cấm được Nhà nước nghiêm cấm sử dụng, tàng trữ, mua bán, nếu vi phạm phải chịu sự trừng phạt của pháp luật, nhưng vì sự cám dỗ của đồng tiền và chất ma túy, để thỏa mãn cơn nghiện, đáp ứng nhu cầu của bản thân các bị cáo đã bất chấp tất cả, các bị cáo vẫn cố ý mua bán, cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến cho cộng đồng, gây mất an ninh trị an tại địa phương, xâm hại đến sức khỏe, sự tồn vong của con người và là nguyên nhân của một số tội phạm khác. Do đó cần thiết phải xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với mức độ hành vi của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử xét các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo Đ đã tự thú trước pháp luật về các hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm r Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Đối với mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp. Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy và không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 03 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,4069 gam mẫu M1 được niêm phong trong phong bì số 49/1 và 01 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,1015 gam mẫu M2 được niêm phong trong phong bì số 49/2 (phong bì số 49/1 và số 49/2 đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận).

Đối với 01 điện thoại di động, hiệu Iphone màu xám, màn hình bị vỡ có chứa sim số 0862.471.017 (của Đ); 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, bên trên màn hình và mặt lưng có dòng chữ Samsung (của Lệ); 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh đen có chứa sim số 0563.671.324, 0948.058.715 (của L); 01 xe mô tô biển số 86B3-516.57, nhãn hiệu SIRIUS màu đỏ đen và số tiền 450.000 đồng là tiền Đ bán ma túy có được, đề nghị tịch thu sung quỹ nhà nước.

Riêng số tiền còn lại 300.000đ (của Đ) không liên quan đến việc phạm tội, nên hoàn trả cho Đ.

Toàn bộ số tiền 750.000 đồng và các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/5/2021.

[8] Về những vấn đề khác:

Đối với đối tượng tên Đ ở khu vực chợ Văn Thánh thuộc thành phố Phan Thiết đã bán ma túy cho Nguyễn Hoài Đ trong ngày 09/01/2021 (theo lời khai của Nguyễn Hoài Đ). Hiện tại, đến nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể của người có tên “Đông” này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Đối với Nguyễn Văn L, Đỗ Tấn T và Liêu Ngọc N là những người đã mua ma túy của Nguyễn Hoài Đ về sử dụng trước đó. Tuy nhiên, Cơ quan chức năng không lập được biên bản việc Nguyễn Văn L, Đỗ Tấn T và Liêu Ngọc N sử dụng trái phép chất ma túy vào thời gian nào và có khối lượng bao nhiêu nên không đủ căn cứ để xử lý Nguyễn Văn L, Đỗ Tấn T và Liêu Ngọc N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của L, T và N đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Hàm Thuận Bắc đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T và N, mức phạt mỗi người 750.000 đồng. Riêng Nguyễn Văn L đã có Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc số 12/QĐ-TA ngày 14/4/2021 với thời hạn 12 tháng.

Đối với 01 xe mô tô, biển số 86B3-360.54 nhãn hiệu Honda Dream do Nguyễn Thanh T, sinh năm 1996 ở thôn 2, xã Thuận Minh, huyện Hàm Thuận Bắc làm chủ sở hữu, Trí không biết L sử dụng xe mô tô trên đi mua ma túy về sử dụng và cũng không tạo điều kiện gì cho L đi mua ma túy về sử dụng nên sau khi tạm giữ xe mô tô trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Hàm Thuận Bắc đã ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả lại ông Nguyễn Thanh T là đúng quy định.

Các bị cáo Nguyễn Hoài Đ và Lê Xuân L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s, r Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (Đối với Nguyễn Hoài Đ về tội: Mua bán trái phép chất ma túy).

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (Đối với Nguyễn Hoài Đ về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy).

Căn cứ vào Điều 55 Bộ luật Hình sự (Đối với Nguyễn Hoài Đ).

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự (Đối với Lê Xuân L).

1.Tuyên bố:

Bị cáo Nguyễn Hoài Đ – Tên gọi khác: K, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Lê Xuân L – Tên gọi khác: C, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Hoài Đ - Tên gọi khác: Két 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/01/2021.

Xử phạt: Lê Xuân L 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng :

Căn cứ Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2, Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

*Tịch thu và tiêu hủy:

- 03 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,4069 gam mẫu M1 được niêm phong trong phong bì số 49/1 và 01 gói nylon không màu đã cắt lấy mẫu và 0,1015 gam mẫu M2 được niêm phong trong phong bì số 49/2 (phong bì số 49/1 và số 49/2 đều có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận).

*Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 điện thoại di động, hiệu Iphone màu xám, màn hình bị vỡ có chứa sim số 0862.471.017 (của Đ); 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng màu đen, bên trên màn hình và mặt lưng có dòng chữ Samsung (của Lệ); 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh đen có chứa sim số 0563.671.324, 0948.058.715 (của L); 01 xe mô tô biển số 86B3-516.57, nhãn hiệu SIRIUS màu đỏ đen và số tiền 450.000đồng.

Hoàn trả cho Nguyễn Hoài Đ số tiền còn lại 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng).

Toàn bộ số tiền 750.000đồng và các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hàm Thuận Bắc theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/5/2021.

3. Về án phí:

Căn cứ Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Hoài Đ và Lê Xuân L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án:

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (28/7/2021). Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại chính quyền địa phương

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

Số hiệu:99/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về