Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 520/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 520/2019/HS-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 27 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 705/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5982/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Viết M (tên gọi khác: Không); giới tính: Nam;, sinh ngày 18/10/1983 tại Thái Bình; nơi cư trú: đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở tại Xóm 2, thôn TCN, xã TT, huyện TT, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; đảng phái: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Thủy thủ; con ông Nguyễn Viết G và bà Nguyễn Thị V; hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Vũ Thị G và 02 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 23/4/2019 đến nay tại Trại tạm giam PA09 – Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 05 phút ngày 23/4/2019, tại phòng trực kiểm soát xuất nhập cảnh cổng K13 cảng Nhà Rồng - Khánh Hội (đường Trương Đình Hợi, Phường 18, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh), tổ công tác Trạm Biên phòng cửa khẩu cảng Khánh Hội thuộc Biên phòng cửa khẩu cảng Thành phố Hồ Chí Minh đang làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát thì phát hiện Nguyễn Viết M (là thuyền viên tàu biển PN 01 đang neo đậu tại cầu K7 cảng Nhà Rồng - Khánh Hội) kéo vali từ trong cầu cảng ra ngoài có nhiều biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra hành lý. Qua kiểm tra phát hiện trong vali của Nguyễn Viết M có 02 khẩu súng ngắn cùng 178 viên đạn các loại nên Ban Chỉ huy Biên phòng Cửa khẩu cảng Thành phố Hồ Chí Minh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 846/KLGĐ-TT ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Khẩu súng ngắn gửi giám định ký hiệu số 1 (đã nêu ở mục II) là súng ngắn COLT MK IV có cỡ nòng 11,43mm, số súng 67788, súng còn đầy đủ các bộ phận, hoạt động bình thường và bắn được đạn nổ.

- Khẩu súng ngắn ổ quay gửi giám định ký hiệu số 2 (đã nêu ở mục II) là súng ngắn ổ quay PROTECTOR có cỡ nòng 9mm, không có số súng, súng còn đầy đủ các bộ phận, hoạt động bình thường và bắn được đạn nổ.

- 38 (ba mươi tám) viên đạn có cùng ký hiệu “AP16 – 38SPL” gửi giám định (đã nêu ở mục II) là đạn quân dụng cỡ 9mm x 29,5mm, chưa qua sử dụng, thường dùng cho các súng ngắn quân dụng dạng ổ quay có cỡ nòng 9mm như súng ngắn hiệu Smith & Wesson… - 140 (một trăm bốn mươi) viên đạn có cùng ký hiệu “A USA – 45 AUTO” gửi giám định (đã nêu ở mục II) là đạn quân dụng cỡ 11,43mm x 22,5mm, chưa qua sử dụng, thường dùng cho các súng quân dụng có cỡ nòng 11,43mm như súng Colt 45… 02 (hai) khẩu súng và 178 (một trăm bảy mươi tám) viên đạn gửi giám định nêu trên là vũ khí quân dụng.

Tại Cơ quan An ninh điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Viết M khai nhận: Khoảng năm 2014, Nguyễn Viết M làm việc tại Công ty TNHH HC (địa chỉ 260/2B NTB, Phường AW, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh), làm thuyền viên đi tàu Hòa Bình 45. M đã sử dụng số điện thoại 094539xxxx đăng ký tài khoản Zalo tên “V” và tài khoản Facebook tên “V” kết bạn làm quen với Chu Quang H (tài khoản Facebook là “H Chu”, tài khoản Zalo là “H Bống”). Sau khi kết bạn, nhắn tin trao đổi M biết H cũng từng là thuyền viên tàu Hòa Bình 45 nhưng đã nghỉ việc trước khi M được nhận vào công ty làm. Quá trình liên lạc, M và H trao đổi về cuộc sống, công việc và đã gặp mặt trực tiếp một lần tại Hải Phòng.

Tháng 12/2018, M nghỉ làm ở Công ty TNHH HC, chuyển qua làm cho Công ty TNHH MTV PN (địa chỉ 157 VTS, Phường Y, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh), làm thủy thủ trưởng đi tàu PN 01. M nhắn tin qua Zalo cho H biết tàu PN 01 có chuyến đi đến cảng Caga Yan De Oro của Philippin để giao gạo vào ngày 01/3/2019. H cho M biết có quen người bạn ở Philippin (sử dụng tài khoản Facebook tên “E”), H sẽ nhờ người bạn này mua giúp H 06 khẩu súng và nhờ M ứng tiền trả để nhận súng và đem về Việt Nam cho H, H sẽ trả lại tiền đã ứng và trả công cho M 300 USD. M đồng ý và còn nhờ H đặt mua giúp M 03 khẩu súng (M nói dối là mua giùm Bếp trưởng, Đại phó của tàu và M mỗi người 01 khẩu súng). H đồng ý, báo cho M biết giá của 09 khẩu súng là 1700 USD. Tuy nhiên, sau đó H nhắn tin báo M biết thời gian này ở Philippin đang bầu cử, kiểm tra gắt gao nên bạn của H không giao súng được.

Sau đó, M tiếp tục báo cho H biết ngày 03/4/2019 tàu PN 01 sẽ cập cảng Caga Yan De Oro của Philippin. H gửi cho M số điện thoại của “E” ở Philippin là 0907671xxxx và viết tin nhắn bằng tiếng Anh (tin nhắn này được thu giữ từ điện thoại M) gửi M để M chuyển cho “E” (do M không biết tiếng Anh) với nội dung tàu của M đã đến cảng Caga Yan De Oro, đồng thời H báo cho M biết đã có hàng, gồm 02 khẩu súng ngắn (01 khẩu súng Colt và 01 khẩu súng ổ quay), dặn M khi nhận hàng thì trả cho “E” 720 USD. Ngày 09/4/2019, “E” đến cảng Caga Yan De Oro thì được M đưa lên phòng của M ở trên tàu, tại đây M nhận 02 khẩu súng ngắn (01 khẩu súng Colt và 01 khẩu súng ổ quay) cùng 78 viên đạn các loại, M trả cho “E” 720 USD và cho thêm 01 cây thuốc lá, 04 gói mì tôm Hảo Hảo rồi đưa “E” xuống tàu ra khỏi cảng. Quá trình giao dịch chỉ có 02 người, M không cho ai biết. Sau đó, M lấy súng, đạn ra chụp ảnh gửi cho H qua Zalo (các hình ảnh này trên Zalo M đã xóa trước khi bị bắt).

Khoảng 10 giờ ngày 11/4/2019, M lên bờ vào một tiệm sửa chữa súng xem và mua 02 (hai) hộp đạn súng ngắn (mỗi hộp 50 viên, tổng cộng 100 viên đạn) với giá 3600 peso Philippin (khoảng 1.500.000 đồng tiền Việt Nam). M nhắn tin qua Zalo nhờ H bán số đạn này kiếm lời, H cho biết số đạn này bán không lời được nhiều nên M quyết định giữ lại và đem số đạn này về cất chung với số súng đã nhận trước đó. M hỏi H cách thức giao nhận súng thì được H dặn khi đem về Việt Nam thì báo cho H, H sẽ cho địa chỉ cụ thể để giao súng.

Ngày 19/4/2019, tàu PN 01 về đến Việt Nam và neo đậu tại cầu K7 cảng Nhà Rồng - Khánh Hội (địa chỉ Trương Đình Hợi, Phường 18, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh). Đến 19 giờ 05 phút ngày 23/4/2019, M cất 02 (hai) khẩu súng ngắn và 178 (một trăm bảy mươi tám) viên đạn vào vali cá nhân mang xuống tàu thì bị lực lượng Biên phòng Cửa khẩu cảng Thành phố Hồ Chí Minh kiểm tra phát hiện bắt giữ như trên.

Vật chứng vụ án gồm có:

- 01 (một) khẩu súng màu đen trắng, mặt bên trái nòng súng có ký hiệu COLT’S MKIV SERIES 80; mặt bên phải nòng súng có ký hiệu GORVERNMENT MODEL; phía bên phải thành súng có ký hiệu COLT’S PT.F.A.MFG.CO.HARTFORO.CONN.USA67788.

- 01 (một) khẩu súng Rulo màu đen bên trái nòng súng có ký hiệu 38SW SPECCIAL.

- 02 (hai) hộp giấy bên ngoài có chữ ARMSOR, bên trong mỗi hộp có 50 (năm mươi) viên đạn, mỗi viên dài 3cm, thân màu vàng, đầu tròn màu đồng, đường kính đít viên đạn 12 ly có ký hiệu A USA 45 AUTO.

- 01 (một) hộp giấy bên ngoài có chữ ARMSOR, bên trong có 40 (bốn mươi) viên đạn, mỗi viên đạn dài 3cm, thân màu vàng, đầu tròn màu vàng, đường kính đít viên đạn 12 ly có ký hiệu A USA 45 AUTO.

- 01 bịch nylon màu trắng, bên trong chứa 38 (ba mươi tám) viên đạn có chiều dài 4cm, đầu và thân màu vàng, đường kính đít viên đạn 11 ly có ký hiệu AP16 38SPL.

- 01 (một) vali màu đen hiệu AIRPORT.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, trên vỏ có số IMEI 1: 358465094283994, số IMEI 2: 358466094283992 kèm sim điện thoại số 094539xxxx.

Tại bản Cáo trạng số 399/Ctr-VKS-P1 ngày 26/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Viết M về tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng” thuộc trường hợp vận chuyển qua biên giới theo điểm b, khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Quá trình xét hỏi công khai và thẩm tra các tài liệu, chứng cứ có liên quan trong vụ án, bị cáo Nguyễn Viết M xác định thực hiện hành vi như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố tại phiên tòa nêu quan điểm luận tội:

+ Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệnm hình sự và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 5 năm đến 7 năm tù giam. Áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

- Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát.

- Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên, của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Qua lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo Nguyễn Viết M khi đang là thuyền viên tàu PN 01 (thuộc Công ty TNHH MTV PN) có quen biết, trao đổi với đối tượng tên Chu Quang H (không rõ nơi cư trú, nơi làm việc) thông qua tài khoản Zalo, tài khoản Facebook. Qua trao đổi, H biết vào tháng 4/2019, tàu PN 01 của M sẽ cập cảng Caga Yan De Oro của Philippin. Theo đề nghị của H, ngày 09/4/2019, khi tàu PN 01 đang ở cảng Caga Yan De Oro của Philippin, M đã nhận mua giúp H 02 khẩu súng ngắn cùng 78 viên đạn các loại từ người có tài khoản Facebook tên “E” với giá 720 USD để mang về Việt Nam giao lại cho H. Ngày 19/4/2019, tàu PN 01 của M về đến Việt Nam. Ngày 23/4/2019, M cất súng và đạn vào vali cá nhân, khi đang mang xuống tàu thì bị phát hiện, bắt giữ. Kết luận giám định số 846/KLGĐ-TT ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận toàn bộ số súng, đạn trên là vũ khí quân dụng.

Khi thực hiện hành vi như đã nhận định ở trên, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự; thực hiện với lỗi cố ý, bị cáo biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện, lợi dụng tính chất công việc của mình để vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng qua biên giới từ Philippin về Việt Nam. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn công cộng, xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước đối với vũ khí quân dụng.

Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cầu thành tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng” với tình tiết định khung tăng nặng “Vận chuyển, mua bán qua biên giới” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn công cộng, xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước đối với vũ khí quân dụng, là một trong những khách thể quan trọng được bảo vệ trong Bộ luật Hình sự. Không chỉ vậy, hành vi của bị cáo còn xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về an ninh, trật tự trong hoạt động giao thương, vận chuyển giữa Việt Nam với các nước, đặc biệt là ở các tuyến biên giới hàng hải. Bị cáo biết hành vi của mình bị Nhà nước nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nhưng vẫn cố ý thực hiện, lợi dụng tính chất công việc đi lại giữa các quốc gia và vai trò thủy thủ trưởng của mình để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn nay hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2917.

Hội đồng xét xử căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để lượng mức hình phạt cho bị cáo nh8àm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội [5] Áp dụng khoản 5 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 phạt tiền bị cáo 10.000.000 đồng.

[6] Về hành vi của các đối tượng có liên quan trong vụ án Đối tượng tên Chu Quang H là người mà bị cáo Nguyễn Viết M khai quen qua mạng xã hội Zalo với tài khoản tên “H Bống”, tài khoản Facebook tên “H Chu”, cũng là người đã thuê bị cáo vận chuyển súng từ Philippin về Việt Nam. Qua xác minh, Cơ quan điều tra chưa xác định được nơi ở (đối tượng không có nơi cư trú), nơi làm việc nên chưa lấy được lời khai để làm rõ mức độ liên quan nên chưa có căn cứ xử lý. Kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối tượng người Philippin có tài khoản Facebook “E”, số điện thoại 0907671xxxx mà bị cáo M khai là người đã giao súng cho bị cáo và nhận tiền từ bị cáo ở Philippin, do không có thông tin về nhân thân lai lịch nên không có căn cứ điều tra xử lý.

Đối với hành vi mua thêm 02 hộp đạn mỗi hộp 50 viên với giá 3.600 peso Philippin (1.500.000 đồng Việt Nam), bị cáo đã khai rõ về hành vi mua nhằm mục đích bán lại. Vật chứng cơ quan điều tra đã thu giữ được, tiếp tục kiến nghị cớ quan điều tra xử lý theo quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng - 01 (một) khẩu súng màu đen trắng, mặt bên trái nòng súng có ký hiệu COLT’S MKIV SERIES 80; mặt bên phải nòng súng có ký hiệu GORVERNMENT MODEL; phía bên phải thành súng có ký hiệu COLT’S PT.F.A.MFG.CO.HARTFORO.CONN.USA67788;

- 01 (một) khẩu súng Rulo màu đen bên trái nòng súng có ký hiệu 38SW SPECCIAL;

- 178 (một trăm bảy mươi tám) viên đạn các loại;

- 01 (một) vali màu đen hiệu AIRPORT (bị cáo dùng để đựng 02 khẩu súng và 178 viên đạn);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, trên vỏ có số IMEI 1: 358465094283994, số IMEI 2: 358466094283992 kèm sim điện thoại số 094539xxxx (bị cáo dùng để liên lạc với đối tượng tên Chu Quang H và “E” để hẹn thời gian nhận súng).

Là những công cụ mà bị cáo M dùng vào việc phạm tội và hiện còn giá trị nên tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước theo khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[8] Về án phí Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 buộc bị cáo M phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Viết M phạm tội “Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng điểm b, khoản 2, khoản 5 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết M 05 (năm) năm tù; thời hạn tính từ ngày bị cáo bị tạm giam (ngày 23/4/2019).

Buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước các vật chứng sau:

- 01 (một) khẩu súng màu đen trắng, mặt bên trái nòng súng có ký hiệu COLT’S MKIV SERIES 80; mặt bên phải nòng súng có ký hiệu GORVERNMENT MODEL; phía bên phải thành súng có ký hiệu COLT’S PT.F.A.MFG.CO.HARTFORO.CONN.USA67788;

- 01 (một) khẩu súng Rulo màu đen bên trái nòng súng có ký hiệu 38SW SPECCIAL;

- 178 (một trăm bảy mươi tám) viên đạn các loại;

- 01 (một) vali màu đen hiệu AIRPORT;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, trên vỏ có số IMEI 1: 358465094283994, số IMEI 2: 358466094283992, kèm sim điện thoại số 094539xxxx.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 479/19 ngày 25/9/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Viết M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 520/2019/HS-ST

Số hiệu:520/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về