Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 127/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 127/2023/HS-ST NGÀY 19/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 19 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 75/2023/HSST ngày 09 tháng 6 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 124/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Trương Văn D, giới tính: Nam, sinh năm: 1986, tại tỉnh B.

Nơi cư trú: Khu phố A, Phường M, thành phố P, tỉnh B; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trương Giáo C, sinh năm 1960 (Đã chết) và Nguyễn Thị R, sinh năm 1964, nơi cư trú: Khu phố A, Phường M, thành phố P, tỉnh B; Anh chị em ruột: có 03 người; Vợ: Bà Huỳnh Thị Phương T, sinh năm 1994 (Đã ly hôn).

Tiền án: Ngày 18/01/2020, Trương Văn D thực hiện hành vi “Tổ chức đánh bạc”, tại bản án số 14/2022/HSST ngày 19/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B áp dụng điểm a, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Trương Văn D 09 tháng tù, chấp hành xong án phạt tù ngày 05/12/2022, chưa xóa án tích.

Tiền sự: Không Nhân thân:

-Ngày 14/02/2005, Trương Văn D bị Công an phường Mũi Né, thành phố P, tỉnh B quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

-Bản án số 127/2005/HSST ngày 14/9/2005 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B áp dụng điểm a khoản 2 Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt Trương Văn D 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, chấp hành xong án phạt tù ngày 27/3/2007, đã xóa án tích.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Trương Minh N, sinh năm 1995, trú tại: Khu phố A, Phường M, thành phố P, tỉnh B. (Vắng mặt)

Người làm chứng:

-Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm: 1992, trú tại: Khu phố B, Phường M, thành phố P, tỉnh B. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước giữa Trương Văn D, sinh năm: 1986 và Trương Minh N, sinh năm: 1995 cùng thường trú ở Khu phố A, Phường M, thành phố P, tỉnh B nên khoảng 17 giờ ngày 13/02/2022, Trương Văn D điều khiển xe mô tô mang theo 01 khẩu súng không có đạn (Loại súng ngắn, súng ổ quay bằng kim loại màu trắng, báng súng (Ốp tay cầm) được quấn một lớp băng keo đen, bên hông súng có ghi số hiệu 18TH 2XXX) và 01 cây đao đến sân bóng Quốc Đạt, thuộc Khu phố B, Phường M, thành phố P, tỉnh B để hù dọa N. Khi đến nơi, D cầm khẩu súng trên tay đi vào sân bóng dọa bắn làm N hoảng sợ bỏ chạy khỏi sân bóng. Sau đó, Trương Văn D đi ra nơi để xe dùng Đao đập vào yên xe mô tô của N rồi D bỏ về nhà. Đến ngày 14/02/2022, Trương Văn D đã đem khẩu súng nêu trên và cây đao đến Công an phường Mũi Né, thành phố P giao nộp và khai nhận hành vi phạm tội.

Về nguồn gốc khẩu súng, Trương Văn D trình bày là sau khi xãy ra mâu thuẫn với Trương Minh N, D có tìm mua trên mạng internet (Hiện không còn nhớ rõ tên trang web, số điện thoại đã liên hệ). Sau khi mua được súng, D quấn băng keo đen vào báng súng (Ốp tay cầm) khẩu súng rồi cất khẩu súng tại ngăn kéo trong phòng ngủ nhà D ở địa chỉ 286 Huỳnh Thúc Kháng, khu phố C, phường M, thành phố P, tỉnh B. Việc cất giữ súng không ai biết, D chưa sử dụng súng lần nào đến khi thực hiện hành vi nêu trên.

Kết luận giám định số 2257/KL-KTHS ngày 28/4/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Khẩu súng ổ quay bằng kim loại màu trắng, ghi số hiệu 18TH2XXX gửi giám định là súng chế tạo thủ công từ súng đồ chơi nguy hiểm hiệu Wingun, sử dụng để bắn đạn cỡ (5,6 x 15,6)mm. Hiện tại súng có đầy đủ các bộ phận chính, lắp ráp đúng vị trí và bắn được đạn nổ. Khẩu súng nêu trên là vũ khí quân dụng không phải là công cụ hỗ trợ.

Vật chứng thu giữ: Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B tạm giữ 01 khẩu súng ngắn (Súng ổ quay) bằng kim loại màu trắng, báng súng được gắn một lớp băng keo đen, bên hông súng có ghi số hiệu 18TH 2XXX do Trương Văn D giao nộp.

Xử lý vật chứng: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B quyết định chuyển vật chứng đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh B để bảo đảm việc xử lý.

Theo Công văn số 341/CCTHADS-NV ngày 8/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P thì vật chứng nêu trên được Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B tiếp tục bảo quản bảo quản, chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 22/CT-VKSBT-P2 ngày 02-06-2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B truy tố bị cáo Trương Văn D về tội: “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” theo điểm s khoản 1, Điều 51, tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo Trương Văn D từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị xử lý vật chứng thu giữ từ bị cáo.

Bị cáo Trương Văn D thừa nhận hành vi phạm tội, không trình bày lời bào chữa, không tranh luận với Kiểm sát viên về hành vi phạm tội của mình cũng như lời kết tội của Kiểm sát viên.

Về lời nói sau cùng, bị cáo Trương Văn D nói lời sau cùng rất hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra-Công an tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

tụng.

[1.1] Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn D không khiếu nại về thủ tục tố [1.2] Về việc ghi âm, ghi hình đúng qui định của Bộ Luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT- BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01-02-2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

[1.3] Về việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường ghi ngày 17-02-2023, bản ảnh hiện trường đã xác định rõ, thời gian, không gian, địa điểm về ngôi nhà của bị cáo Trương Văn D ở địa chỉ 286 Huỳnh Thúc Kháng, khu phố C, phường M, thành phố P, tỉnh B là tình tiết khách quan, địa điểm và ngôi nhà xảy ra vụ án này là có thật và bị cáo thừa nhận.

[1.4] Về thu giữ vật chứng do bị cáo Trương Văn D giao nộp lập biên bản tạm giữ tang vật ngày 14-02-2022, biên bản niêm phong, kiểm tra đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 03/02/2023 và các biên bản ghi lời khai của bị cáo đều khai đúng và đầy đủ số đồ vật do bị cáo Trương Văn D giao nộp. Như vậy thủ tục giữ vật chứng của cơ quan điều tra không vi phạm thủ tục tố tụng. Các vật chứng trong vụ án này có đầy đủ thuộc tính của chứng cứ được qui định tại Điều 86, 87, 88 Bộ Luật tố tụng hình sự.

nhưn [2] Về căn cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã nêu, thừa nhận cáo trạng truy tố là đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở để kết luận: Sau khi xãy ra mâu thuẫn với Trương Minh N, bị cáo Trương Văn D có tìm mua súng trên mạng internet (Hiện không còn nhớ rõ tên trang web, số điện thoại đã liên hệ). Sau khi mua được súng, D quấn băng keo đen vào báng súng (Ốp tay cầm) khẩu súng rồi cất khẩu súng tại ngăn kéo trong phòng ngủ nhà D ở địa chỉ 286 Huỳnh Thúc Kháng, khu phố C, phường M, thành phố P, tỉnh B. Khoảng 17 giờ ngày 13/02/2022, Trương Văn D điều khiển xe mô tô mang theo 01 khẩu súng không có đạn (Loại súng ngắn, súng ổ quay bằng kim loại màu trắng, báng súng (Ốp tay cầm) được quấn một lớp băng keo đen, bên hông súng có ghi số hiệu 18TH 2XXX) và 01 cây đao đến sân bóng Quốc Đạt, thuộc Khu phố B, Phường M, thành phố P, tỉnh B để hù dọa N. Khi đến nơi, D cầm khẩu súng trên tay đi vào sân bóng dọa bắn làm N hoảng sợ bỏ chạy khỏi sân bóng. Sau đó, Trương Văn D đi ra nơi để xe dùng Đao đập vào yên xe mô tô của N rồi D bỏ về nhà.

[2.1] Bị cáo Trương Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 khẩu súng ngắn không có đạn (loại súng ổ quay bằng kim loại màu trắng, số hiệụ 18TH 2XXX) là súng chế tạo thủ công từ súng đồ chơi nguy hiểm hiệu Wingun là vũ khí quân dụng đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2.2] Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” là có căn cứ.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

-Về nhân thân: Ngày 14/02/2005, Trương Văn D bị Công an phường Mũi Né, thành phố P, tỉnh B quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

-Bản án số 127/2005/HSST ngày 14/9/2005 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh B áp dụng điểm a khoản 2 Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt Trương Văn D 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, chấp hành xong án phạt tù ngày 27/3/2007, đã xóa án tích.

-Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trương Văn D có 01 tiền án về tội: “Tổ chức đánh bạc” chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

-Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trương Văn D thành khẩn khai báo nên HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giam nhe trách nhiệm hinh sự theo quy điṇ h tai điêm s khoan 1 Điều 51 Bô luât hinh sự.

[4] Hình phạt: Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng của bị cáo Trương Văn D là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: HĐXX xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt và để răn đe, phòng, chống tội phạm chung.

[5] Về biện pháp tư pháp:

Tuyên tịch thu và giao vật chứng là 01 khẩu súng ngắn (Súng ổ quay) bằng kim loại màu trắng, báng súng được gắn một lớp băng keo đen, bên hông súng có ghi số hiệu 18TH 2XXX được Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B bảo quản cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh B giải quyết theo thẩm quyền.

(Theo Công văn số 341/CCTHADS-NV ngày 8/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1.Căn cứ: Khoản 1 Điều 304, Điều 38, điểm s khoan 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015;

- Tuyên bố: Bị cáo Trương Văn D phạm tội: “ Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;

- Xử phạt: Bị cáo Trương Văn D 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

2.Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bô luât hinh sư, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Tuyên tịch thu và giao vật chứng là 01 khẩu súng ngắn (Súng ổ quay) bằng kim loại màu trắng, báng súng được gắn một lớp băng keo đen, bên hông súng có ghi số hiệu 18TH 2XXX được Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B bảo quản cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh B giải quyết theo thẩm quyền.

(Theo Công văn số 341/CCTHADS-NV ngày 8/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).

Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B có trách nhiệm giao vật chứng là 01 khẩu súng ngắn (Súng ổ quay) bằng kim loại màu trắng, báng súng được gắn một lớp băng keo đen, bên hông súng có ghi số hiệu 18TH 2XXX cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh B giải quyết theo thẩm quyền.

3.Về án phí: Áp dung Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trương Văn D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19-07-2023). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 127/2023/HS-ST

Số hiệu:127/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về