Bản án về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ số 15/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ

Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức xét xử trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2023/TLST- HS ngày 14/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2023/QĐXXST-HS ngày 08/9/2023, Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 08/TB-TA ngày 13/9/2023, đối với bị cáo: Lê Văn H, sinh ngày 26/03/1963 tại huyện T, tỉnh Q; Nơi cư trú: thôn Đ, xã Tiên Lãng, huyện T, tỉnh Q; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Trương Thị L (đã chết); bị cáo chung sống như vợ chồng với Ngô Thị Thu H (sinh năm 1969), có 01 con sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 10/6/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xét xử phúc thẩm, xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 16/3/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q; Có mặt tại điểm cầu thành phần.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Lê Thị S, sinh năm 1960; địa chỉ: thôn Đ, xã Tiên Lãng, huyện T, tỉnh Q. Có mặt tại điểm cầu trung tâm.

- Người chứng kiến: Anh Vũ Văn T, sinh năm 1972; địa chỉ: phố Long Tiên, thị trấn T, huyện T, tỉnh Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ ngày 16/03/2023, tại khu vực thôn Đ, xã Tiên Lãng, huyện T, tỉnh Q, Tổ công tác của Đội đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm – Phòng Phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội Biên phòng tỉnh Q phối hợp với Đồn Biên phòng Cửa khẩu cảng Cẩm Phả phát hiện, bắt quả tang Lê Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave S, BKS 14H8-xxxx đi từ hướng thôn Đ lên cầu Đ, trên xe chở 01 hộp carton và 01 bảo tải dứa trong có 140 thỏi hình trụ (bên ngoài bọc bằng một lớp nilon màu cam, hai đầu được bịt kín bằng dây kim loại, bên ngoài vỏ có chữ: “THUỐC NỔ NTL T2 D36-200g”) và 10 thỏi hình trụ (bên ngoài bọc một lớp nilon màu cam, ngoài vỏ có chữ “THUOC NO NHU TUONG LO THAN 2 O36-200g”). Tổng cộng 150 thỏi hình trụ trong có chứa chất dẻo, tổng khối lượng 30kg, kết quả giám định là thuốc nổ Nhũ tương thường được dùng để khai khoáng, mở đường… mục đích cất giấu để sử dụng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Văn H tại Số nhà 130, thôn Đ, xã Tiên Lãng, huyện T, tỉnh Q, thu giữ: 02 cuộn dây màu đen đường kính khoảng 02mm, bên trong có lõi, lần lượt có chiều dài là 8m và 5m, kết quả giám định là dây cháy chậm có tác dụng dẫn lửa kích nổ kíp nổ (Kết luận giám định số 74/KL-KTHS ngày 17/3/2023 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an).

Quá trình điều tra, bị cáo Lê Văn H khai nhận: Khoảng tháng 01/2023, H đến khu vực Cảng Vạn Hoa, huyện Vân Đồn để bán cá. Tại đây, H mua của một người đàn ông không quen biết 08kg thuốc nổ với giá 1.600.000đ và được cho 02 cuộn dây cháy chậm có tổng chiều dài 13m. H mang thuốc nổ và dây cháy chậm về cất giấu trên đồi Lốc Bà Lùng cách nhà ở khoảng 02km thuộc thôn Đ, xã Tiên Lãng. Tháng 02/2023, H tiếp tục đến khu vực Cảng Vạn Hoa bán cá, gặp lại người đàn ông kia và mua tiếp 22kg thuốc nổ, thanh toán trả tiền mặt 5.000.000đ và toàn bộ số cá. H mang thuốc nổ về cất giấu cùng vị trí 08kg thuốc nổ trước đó. Mục đích mua thuốc nổ để đánh bắt cá. Trước ngày bị bắt 02 ngày, H mang dây cháy chậm về nhà cất giấu vì sợ trời mưa ẩm ướt. Ngày 16/03/2023, H sử dụng xe mô tô BKS 14H8-xxxx mượn của chị Lê Thị S chở toàn bộ số thuốc nổ trên đến đồi gần cảng cá thuộc thôn Thủy Cơ, xã Tiên Lãng cất giấu để thuận tiện cho việc sử dụng đánh bắt cá. Trên đường đi thì bị lực lượng bộ đội Biên phòng kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ thuốc nổ.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 30 kg thuốc nổ nhũ tương và 13m dây cháy chậm hiện đang do Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Q quản lý chờ xử lý; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave S, BKS 14H8-xxxx và 02 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, Narzo.

Tại Bản cáo trạng số: 83/CT-VKSQN-P1 ngày 12/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã truy tố Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo điểm a khoản 3 Điều 305 Bộ luật hình sự, phân công Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”; căn cứ điểm a khoản 3 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Văn H từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn từ tính từ ngày bị bắt 16/3/2023; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 64, 66 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, tịch thu số vật liệu nổ hoàn lại sau giám định giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Q xử lý theo thẩm quyền; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động màu vàng nhãn hiệu Masstel, 01 điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Narzo; trả lại chị Lê Thị S 01 xe mô tô Wave S, BKS 14H8-xxxx, xe cũ đã qua sử dụng.

Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Cẩm Phả, Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Q, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã nêu, bị cáo H khẳng định lời khai nhận tại quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện, đúng sự thật; bị cáo thừa nhận 02 lần mua thuốc nổ (01 lần 08kg, 01 lần 22kg) về cất giấu với mục đích sử dụng để đánh bắt cá; xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, biên bản khám xét khẩn cấp, biên bản kiểm tra vị trí cất giấu vật chứng, bản ảnh, kết luận giám định; kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được làm rõ tại phiên tòa, đủ căn cứ để kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 01/2023 đến ngày 16/03/2023, tại thôn Đ, xã Tiên Lãng, huyện T, tỉnh Q, Lê Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 30kg thuốc nổ nhũ tương và 13m dây cháy chậm; đến ngày 16/03/2023, khi H đang trên đường vận chuyển số thuốc nổ trên đi cất giấu tại địa điểm khác mục đích để sử dụng thì bị Bộ đội Biên phòng tỉnh Q phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hnh vi nêu trên của bị cáo Lê Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 305 của Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đã nêu và viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo:

Hnh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ của bị cáo đã vi phạm quy định về quản lý, sử dụng vật liệu nổ của Nhà nước, tạo ra nguy cơ mất an ninh trật tự, an toàn xã hội; hành vi tàng trữ vật liệu nổ trái phép của bị cáo gây nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng của con người, mục đích bị cáo sử dụng vật liệu nổ để đánh bắt cá có khả năng gây nguy hiểm cho người khác, gây hủy diệt nguồn lợi thủy sản, tận diệt môi sinh của các loài động vật biển. Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù cũng về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh về ý thức chấp hành pháp luật, mà lại tiếp tục phạm tội, tàng trữ cất giấu vật liệu nổ với số lượng lớn. Do đó cần xử lý nghiêm, đảm bảo công tác răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố là ông Lê Văn Tần là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hạng nhì, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[6] Về vật chứng:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave S màu đỏ, BKS 14H8-xxxx do bị cáo mượn của chị Lê Thị S, chị S không biết bị cáo sử dụng để vận chuyển vật liệu nổ. Quá trình điều tra xác định thông tin chủ sở hữu đăng ký xe là chị Lê Hồng Ph ở Móng Cái (đã chết năm 2012), sau đó chị Lê Thị Thu H (em gái chị Ph) đã bán chiếc xe cho một người không quen biết; chị Lê Thị S khai mua lại chiếc xe từ một người không quen biết tại Móng Cái và đã sử dụng được khoảng 10 năm nay, chị S có xuất trình được giấy đăng ký xe và có ý kiến xin lại chiếc xe, xét thấy đề nghị của chị S là có căn cứ nên trả lại chiếc xe mô tô cho chị S;

- 150 thỏi vật liệu nổ, 13m dây cháy chậm, cần tịch thu giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Q xử lý theo thẩm quyền;

- 02 điện thoại thu giữ của bị cáo H, là tài sản của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại bị cáo.

[7] Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo do là người cao tuổi.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 260 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 305, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn H 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 16/03/2023.

- Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 64, Điều 66 của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 (sửa đổi năm 2019);

Tịch thu: 150 thỏi vật liệu nổ, 13m dây cháy chậm, giao cho Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Q xử lý theo thẩm quyền;

Trả lại bị cáo Lê Văn H: 01 (một) điện thoại di động màu vàng, nhãn hiệu Masstel, máy cũ gắn 01 sim đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động màu xám, nhãn hiệu: narzo màu đen, máy cũ gắn 02 sim đã qua sử dụng.

Trả lại cho chị Lê Thị S: 01 (một) xe mô tô gắn máy nhãn hiệu WAVES màu đỏ, biển kiểm soát: 14H8-xxxx, đã qua sử dụng.

(Tình trạng, đặc điểm đồ vật, tài sản được mô tả tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 17/CCTHADS-BB ngày 14/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T; và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/3/2023 giữa Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Q và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Q; Biên bản đóng gói, niêm phong và giao, nhận lại đối tượng giám định tại Viện Khoa học hình sự Bộ Công an ngày 17/3/2023).

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lê Văn H.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ số 15/2023/HS-ST

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về