Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và vận chuyển hàng cấm số 365/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 365/2021/HSPT NGÀY 26/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 26-9-2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 326/2021/TLPT-HS ngày 17-5-2021 đối với bị cáo Bùi Danh S, do có kháng cáo của bị cáo Lê H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HS-ST ngày 09/04/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê H, sinh ngày 17-8-1980, tại tỉnh Bình Định; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã N, thị xã A, tỉnh Bình Định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 01/12; nghề nghiệp: Thợ xây; con ông Lê Tấn, sinh năm 1946 và bà Huỳnh Thị Hường, sinh năm 1949; vợ là Đỗ Thị Thanh Tuyền, sinh năm 1977 và có 02 con.

Tiền án: Ngày 29-01-2003, Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bình Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 01-9-2004 (theo Biên bản xác minh ngày 22-7-2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện A, hiện nay bị cáo chưa bồi thường dân sự cho bị hại).

Bị cáo bị bắt ngày 08-01-2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Kon Tum, có mặt.

- Bị cáo không kháng cáo:

1. Bùi Danh S (tên gọi khác: S Côi), sinh ngày 10-10-1980, tại tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 1, thị trấn p, huyện NI, tỉnh Kon Tum; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Bùi Danh C (đã chết) và bà Bùi Thị L, sinh năm 1956; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 01-11-1999, Tòa án nhân dân tỉnh KonTum xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 22-8-2000, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt 06 năm tù về tội “Hiếp dâm” và ngày 05-9-2000, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử phạt 03 năm tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp hình phạt của 03 bản án, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 10 năm 03 tháng tù (chấp hành xong hình phạt ngày 15-01-2010).

Bị cáo bị bắt ngày 08-01-2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Kon Tum (Tòa án không triệu tập).

2. Trần Thế V (tên gọi khác: V Lầy), sinh ngày 20-8-1985, tại tỉnh Quảng Bình; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn B1, , huyện N1, tỉnh Kon Tum; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Trần Xuân Ph (đã chết) và bà Lê Thị T1, sinh năm 1956; vợ là Đinh Thị H, sinh năm 1994 và có 02 con; tiền án, tiền sự Không.

Bị cáo bị bắt ngày 05-9-2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Kon Tum (Tòa án không triệu tập).

- Người tham gia tổ tụng có liên quan đến kháng cáo:

Người bào chữa cho bị cáo Lê H: Luật sư Tạ Văn N2 - Văn phòng Luật sư S1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kon Tum, có mặt.

Vụ án có 04 (bốn) người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thực hiện Kế hoạch cao điểm đấu tranh phòng chống tội phạm nhân dịp tết Nguyên đán năm Canh Tý 2020. Lúc 03 giờ 45 phút ngày 08-01-2020, Đoàn Đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Miền trung - Bộ đội Biên phòng phối hợp với Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế B2 - Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum tuần tra kiểm soát tại khu vực Dốc bà Phượng trên Quốc lộ 40, thuộc thôn Ngọc Hải, xã Pờ Y, huyện N1, tỉnh Kon Tum. Tiến hành kiểm tra hành chính đối với xe ô tô, biển kiểm soát 51F-719.65, do Lê H điều khiển, Bùi Danh S ngồi bên ghế phụ, Tổ công tác phát hiện và thu giữ: Tại túi quần Jean phía trước, bên phải trên người Bùi Danh S có 01 ví da màu đen, bên trong có 01 gói nilon không màu, có chứa chất tinh thể màu trắng; dưới gầm xe phía sau, trên bánh xe dự phòng có 02 bì nilon không màu, bên ngoài được bọc bằng nhiều túi nilon có nhiều màu sắc khác nhau, trong 02 bì nilon không màu có chứa các hạt tinh thể màu trắng; phía dưới tấm lót chân của ghế bên phải, hàng ghế phía trước có 01 ví da màu đen, bên trong có 01 túi nilon không màu, bên trong túi nilon có 02 bì nilon không màu, có chứa các hạt tinh thể màu trắng và tại hàng ghế phía sau, phát hiện 01 bao tải xác rắn màu xanh bên trong có 30 hộp giấy kín có cùng kích thước, bên ngoài dán giấy màu in chữ “Best Time E (“4”) - KS4-4910-49 SHOTS”. Đoàn Đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Miền trung - Bộ đội Biên phòng đã tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại Bản kết luận giám định số 144/KLGĐ ngày 10-01-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận:

“Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 (hai) bì nilon trong hộp giấy ghi “M1 ” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 198,7043 gam.

Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 (hai) bì nilon trong hộp giấy ghi “M2 ” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 198,5377gam.

Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong bì công văn ghi “M3 ” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 2,5676 gam”.

Tại Bản kết luận giám định số 143/KLGĐ ngày 13-01-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận:

“30 (ba mươi) hộp giấy kín, bên ngoài dán giấy màu in chữ “Best Time E(4 ”) - KS4-4910-49 SHOTS”, bên trong mỗi hộp đều có 49 (bốn mươi chín) vật hình trụ có dãy nổi liên kết với nhau đựng trong 01 (một) bao xác rắn màu xanh gửi đến giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo; khi đốt bay lên cao, gây tiếng nổ và phát ra ánh sáng màu); tổng khối lượng 48,0 kg”.

Tại Bản kết luận giám định bổ sung số 34/KLGĐ ngày 30-12-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Gia Lai kết luận:

“10 (mười) hộp giấy, bên ngoài dán giấy màu in chữ “Best Time (E4”) - KS4-4910-49 SHOTS”, được lấy ngẫu nhiên có khối lượng 16,1 kg”.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng giữa tháng 12-2019, Lê H đến phòng trọ của Bùi Danh S chơi và nhờ S mua giúp một ít ma túy về để sử dụng, S đồng ý. Ngày 04-01-2020, khi S đang chơi ở dãy phòng trọ của em gái thì nghe một đối tượng tên H (người Lào, chưa xác định được nhân thân lai lịch) và một đối tượng tên My (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đang nói chuyện với nhau về ma túy. Biết những người này bán ma túy, S đặt vấn đề mua 02 lạng ma túy và được đối tượng người Lào đồng ý bán. Sau đó, S gọi điện cho Lê H thông báo đã mua được ma túy và hẹn H hôm sau đến nhận. Ngày 06-01-2020, đối tượng người Lào mang ma túy đến phòng trọ của S. S điện thoại nhưng H không nghe máy, nên đối tượng người Lào đi về. Trước khi về, người này đưa cho S 01 túi nilon, bên trong có 04 bì ma túy và dặn S cất giấu, khi nào H đến nhận ma túy thì gọi điện lại. Sau đó S mang túi ma túy cất giấu gần dãy phòng trọ.

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 07-01-2020, Lê H điều khiển xe ô tô, biển kiểm soát 51F-719.65 đến phòng trọ của S. Do không muốn H biết mình đang cất giấu ma túy ở dãy phòng trọ, nên S giả vờ nhờ H chở đến mộ bố của S để lấy ma túy. Khi lên xe, S lên trước và cầm theo túi ma túy mà đối tượng người Lào đã đưa. S mở ra và lấy 02 gói bỏ vào cốp phụ phía trước xe ô tô, còn 02 bì S để bên hông ghế phụ S ngồi. Sau khi đến mộ bố S thì cả hai quay về lại phòng trọ của S. Đến trước cửa phòng trọ, H đi ăn cơm ở quán cơm đối diện, còn S vào phòng gọi điện cho đối tượng người Lào để hỏi giá của 04 gói ma túy và được người này hướng dẫn cho S lấy 02 gói giao cho H, giá mỗi gói là 15.000.000 đồng, còn 02 gói mang xuống thành phố Kon Tum sẽ có người liên hệ để nhận. Khi nào giao xong ma túy thì đến Cửa khẩu Quốc tế B2 đưa tiền cho người này và sẽ nhận được tiền công mỗi gói là 2.000.000 đồng.

Sau khi nhận được hướng dẫn của đối tượng người Lào, S ra trước cửa phòng gọi điện cho H rồi cùng H đi về nhà thuê của H tại thôn Đ1, xã Đ2, huyện N1, tỉnh Kon Tum. Trên đường đi, S chỉ tay về phía cốp phụ phía trước xe ô tô và nói: “Hàng của anh ở trong này”, H gật đầu đồng ý và thống nhất giá 02 gói ma túy là 30.000.000 đồng và hẹn S vài hôm sẽ trả tiền. Đi được một đoạn, H hỏi S biết chỗ nào bán pháo không, mua dùm một ít để tết đốt, S nói: “Để gọi cho người này thử” và lấy điện thoại gọi cho Trần Thế V, nhờ V mua hộ pháo. V đồng ý và gọi điện cho một đối tượng tên là “Beo” (không xác định được nhân thân, lai lịch) hỏi mua pháo, Beo nói giá 650.000 đồng một hộp. Sau đó, V gọi điện cho S báo giá, S đồng ý và nhờ V mua giúp 10 hộp pháo và hẹn tối cùng ngày sẽ đến lấy. H hỏi S nhờ ai mua pháo, thì S nói là “V Lầy”, H nói: “Tưởng ai chứ V Lầy thì quá rành”. Khi về đến nhà H, S vào trong nhà nằm nghỉ, còn H ở ngoài dọn dẹp xe ô tô. H lấy 02 gói ma túy mà S đã cất ở cốp phụ phía trước xe ô tô bỏ vào bì nilon rồi buộc dưới gầm xe ô tô, phía sau trên bánh xe dự phòng. Một lúc sau, S ra mở cốp thì không thấy 02 gói ma túy đâu, thì H nói dọn dẹp và cất rồi. Lúc này, S lấy 02 gói ma túy đã cất vào bên hông ghế phụ bỏ vào 01 ví da màu đen rồi cất giấu dưới tấm lót chân ghế bên phụ S ngồi. Sau đó, H điều khiển xe ô tô chở S đến nhà V. Đến nơi, S hỏi V: “Đã mua pháo cho anh H chưa”, V trả lời: “Tiền đâu mà mua”, thì H đưa cho V 6.000.000 đồng và nói còn nợ lại 500.000 đồng, hẹn bữa sau trả. V nhận tiền và nói H, S ở nhà của V chờ rồi V lấy xe mô tô đi vào Khu vực Cửa khẩu quốc tế B2 để gặp Beo mua pháo. Sau khi mua được pháo, V gọi điện cho H nhưng H không nghe máy, nên V nhắn tin cho H nói lên khu vực bờ hồ gần Cửa khẩu B2 để nhận pháo. Sau đó, H điều khiển xe ô tô chở S lên khu vực bờ hồ gần Cửa khẩu B2 gặp V. Tại đây, khi thấy Beo chở pháo ra, thì V nói với H đó là người bán pháo rồi V đi xe mô tô về nhà trước. Sau khi nhận pháo, H điều khiển xe ô tô chở S đi về. Khi đến trước nhà của V, thì H và S bị Đoàn đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Miền trung và Đồn Biên phòng Cửa khẩu quốc tế B2 phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Đối với gói ma túy thu giữ trong ví da màu đen trên người của Bùi Danh S, S khai nhận là ma túy đá, S nhặt được và cất giấu trên người, mục đích để sử dụng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HS-ST ngày 09-4-2021, Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm g khoản 2 Điều 191, điểm S khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 155 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Lê H 17 (mười bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 03 (ba) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc H phải chấp hành chung là 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 08-01-2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Bùi Danh S, Trần Thế V; quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19-4-2021, Lê H kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án và căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] . Ngày 19-4-2021, Lê H kháng cáo xin giảm hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đua vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phần tranh luận, Luật sư bào chữa cho bị cáo và bị cáo Lê H thống nhất về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, nhưng cho rằng quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cân nhắc, xem xét giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo sớm có cơ hội đoàn tụ với gia đình.

[2] , Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, Lê H đến phòng trọ của Bùi Danh S chơi và nhờ S mua ma túy. Sau khi mua được của đối tượng người Lào 04 gói ma túy, S đã thông báo cho H biết. Ngày 07-01-2020, Lê H điều khiển xe ô tô đến phòng trọ của S mua lại 02 gói ma túy, với giá 30.000.000 đồng. Cùng ngày, Lê H tiếp tục nhờ S mua pháo nổ về đốt ngày tết. Tuy nhiên, khi H đang trên đường về, thì bị Đoàn Đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Miền trung và Bộ đội Biên phòng cửa khẩu Quốc tế B2 phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại Bản kết luận giám định số 144/KLGD ngày 10-01-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 (hai) bì nilon trong hộp giấy ghi “M1 ” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 198,7043 gam”.

Tại Bản kết luận giám định số 143/KLGĐ ngày 13-01-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “30 (ba mươi) hộp giấy kín, bên ngoài dán giấy màu in chữ “Best Time E(4 ”) - KS4-4910-49 SHOTS”, bên trong mỗi hộp đều có 49 (bốn mươi chín) vật hình trụ có dây nổi liên kết với nhau đựng trong 01 (một) bao xác rắn màu xanh gửi đến giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo; khi đốt bay lên cao, gây tiếng nổ và phát ra ánh sáng màu); tổng khối lượng 48,0 kg ” và tại Bản kết luận giám định bổ sung số 34/KLGĐ ngày 30-12-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “10 (mười) hộp giấy, bên ngoài dán giấy màu in chữ “Best Time E(4”) -KS4-4910-49 SHOTS”, được lấy ngẫu nhiên có khối lượng 16,1 kg”.

Với các hành vi phạm tội như nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 249 của Bộ luật Hình sự và tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm g khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.2], Về hình phạt:

- Đối với tội ‘Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, Lê H đã nhờ Bùi Danh S mua của đối tượng người Lào 02 gói ma túy. Khi H đang trên đường về, thì bị Đoàn Đặc nhiệm phòng chống ma túy và tội phạm Miền trung và Bộ đội Biên phòng cửa khẩu Quốc tế B2 phát hiện, bắt quả tang và tại Bản kết luận giám định số 144/KLGĐ ngày 10-01-2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai kết luận: “Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 02 (hai) bì nilon trong hộp giấy ghi “M1 ” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 198,7043 gam”.

Lê H là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo vẫn cố ý thực tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, hành vi này không những trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự và an toàn xã hội, mà còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và là nguyên nhân lây truyền các căn bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 17 (mười bảy) năm tù là tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt, nhưng với hành vi phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như đã nêu trên, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ tương đối lớn (198,7043 gam), thì việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài là điều cần thiết. Có như vậy, mới đủ tác dụng để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không giảm hình phạt cho bị cáo đối với tội danh này.

- Đối với tội “Vận chuyển hàng cấm”:

Lê H biết rõ pháo nổ là mặt hàng bị Nhà nước nghiêm cấm mua bán, vận chuyển và sử dụng dưới mọi hình thức, nhưng để thỏa mãn thú vui của mình, bị cáo vẫn nhờ người mua và vận chuyển pháo nổ đem về nhà để sử dụng. Hành vi phạm tội này đã làm mất trật tự an toàn xã hội, nên cần phải xử lý bị cáo một hình phạt nghiêm khắc, nhưng xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; số lượng pháo nổ vận chuyển không lớn và đã được bắt giữ kịp thời, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ xem xét, giảm hình phạt về tội danh này cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và có cơ sở để chấp nhận.

[3], Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4], Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên Lê H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê H.

- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HS-ST ngày 09-4-2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum về phần hình phạt đối với tội “Vận chuyển hàng cấm”.

2. Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm g khoản 2 Điều 191, điểm S khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1, khoản 2 Điều 52 và điểm a khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Lê H 17 (mười bảy) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 02 (hai) năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành chung là 19 (mười chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt 08-01-2020.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Lê H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và vận chuyển hàng cấm số 365/2021/HSPT

Số hiệu:365/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về