TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 82/2021/HS-PT NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 14/2021/HSPT ngày 12 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Võ Ngọc S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Võ Ngọc S (tên gọi khác: P); giới tính: nam; sinh năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: số A ấp B, xã B1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: làm thuê; con ông: VNT và bà: LTL; hoàn cảnh gia đình: (không rõ);
Tiền án:
- Ngày 22/02/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ xử phạt 01 năm tù về “Tội Trộm cắp tài sản” (Bản án số 03/2012/HS-ST ngày 22/02/2012 – BL 74- 77); ngày 10/9/2012, chấp hành xong hình phạt tù (BL 54-57, 190-192); đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo Biên lai thu số 00620 ngày 11/4/2012 và Biên lai thu số 00645 ngày 03/5/2012 (Giấy xác nhận kết quả thi hành án số 446/GXN-THADS ngày 17/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giờ - BL 52-53);
- Ngày 24/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ xử phạt 06 tháng tù về “Tội Trộm cắp tài sản” (Bản án số 30/2013/HSST ngày 24/9/2013 – BL 68- 70); ngày 02/12/2013, chấp hành xong hình phạt tù (BL 54-57, 190-192); đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu số 01501 ngày 24/12/2013 và Biên lai thu số 05001 ngày 07/02/2014 (Giấy xác nhận kết quả thi hành án số 446/GXN-THADS ngày 17/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giờ - BL 52-53);
- Ngày 16/6/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Cần giờ xử phạt 09 tháng tù về “Tội Trộm cắp tài sản” (Bản án số 17/2015/HSST ngày 16/6/2015 – BL 59- 64); ngày 31/12/2015, chấp hành xong hình phạt tù (BL 54-57, 190-192); Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giờ có Giấy xác nhận kết quả thi hành án số 446/GXN-THADS ngày 17/8/2020 (BL 52-53) thể hiện chưa nhận được bản án;
- Ngày 11/9/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ xử phạt 02 năm 06 tháng tù về “Tội Trộm cắp tài sản” (Bản án số 12/2017/HSST ngày 11/9/2017 – BL 54-57); tháng 10/2019, chấp hành xong hình phạt tù (BL 190-192); đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo Biên lai thu số 0006545 ngày 23/4/2018 (Giấy xác nhận kết quả thi hành án số 446/GXN-THADS ngày 17/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giờ - BL 52-53); Tiền sự:
- Ngày 18/4/2020, bị Công an xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0006693/QĐ-XPHC ngày 18/4/2020 – BL 86); Công an xã Bình Khánh chưa nhận được biên lai đóng tiền phạt vi phạm hành chính của Võ Ngọc S (Biên bản xác minh ngày 25/6/2020 – BL 179);
- Ngày 11/5/2020, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Bình Khánh, huyện Cần Giờ áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 192/QĐ-UBND ngày 11/5/2020 – BL 89), đến ngày 30/6/2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Bình Khánh chấm dứt việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã do bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cần Giờ bắt, tạm giam và khởi tố trong vụ án này (Quyết định chấm dứt việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã số 355/QĐ-UBND ngày 30/6/2020 – BL 90);
Nhân thân: Ngày 26/10/2006, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa người vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng về hành vi “nhiều lần trộm cắp, đã bị chính quyền địa phương áp dụng biện pháp giáo dục nhưng vẫn vi phạm” (Quyết định về đưa người vào trường giáo dưỡng số 1036/QĐ-UBND ngày 26/10/2006 – BL 47); Bị bắt, tạm giam từ ngày: 16/6/2020 (có mặt).
- Bị hại:
1. Ông Hà Thái H1, sinh năm 1987 (vắng mặt)
2. Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1987 (vắng mặt) Cùng trú tại: số A1 ấp B, xã B1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Trọng Đ, sinh năm 1984 (vắng mặt) Thường trú: tổ A, phường T, quận H, thành phố Hà Nội Chỗ ở: nhà trọ K đường H, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 00 ngày 15/6/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Võ Ngọc S đi từ nhà số A ấp B, xã B1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đến trước nhà trọ K đường H, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo S mượn điện thoại của người chạy xe ôm để liên lạc với người tên Đ (do bạn bè giới thiệu để mua ma túy) đang tạm trú tại phòng trọ trên để hỏi mua ma túy với số tiền 700.000 đồng; Đ đồng ý bán, từ nhà trọ đem ra 01 gói ma túy để bán cho S. Sau khi mua ma túy và trả tiền xong, bị cáo S cất giấu gói ma túy vào người rồi đi về nhà.
Đến khoảng 23 giờ 00 cùng ngày 15/6/2020, Võ Ngọc S đi bộ ngang qua nhà số A1 ấp B, xã B1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì thấy có 02 xe máy để trước hiên nhà, có cổng nhưng một bên hiên không có hàng rào bảo vệ vì đang sửa chữa nhà. Bị cáo thấy không có người trông coi, nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên đột nhập vào trong hiên nhà từ hướng không có hàng rào, đi đến chiếc xe máy hiệu Honda, loại xe Vision biển số 86B7-YYY.YY. Sự tìm thấy chìa khóa xe ở ngăn chứa đồ phía trước cổ xe rồi mở cửa cổng, dẫn xe ra rồi điều khiển xe đến nhà trọ K, mượn điện thoại của nhân viên cây xăng gần đó để điện thoại cho Đ xuống để bán xe. Tuy nhiên, do Đ trả giá rẻ nên S không bán và gửi xe lại nhà trọ cho Đ giữ. S mượn Đ 200.000 đồng đi xe ôm về xã B1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 16/6/2020, Võ Ngọc S tiếp tục đến nhà đã lấy trộm xe Vision kể trên để trộm cắp chiếc xe Exciter biển số 54T3-LLLL còn lại. Do chìa khóa gắn trên xe nên S dẫn xe ra cổng rồi điều khiển xe đến nhà trọ K, mượn điện thoại người đi đường để điện thoại cho Đ xuống coi xe nhưng chờ lâu không thấy Đ, S điều khiển xe vào nhà trọ hỏi bảo vệ. Được biết đối tượng Đ ở phòng số 302, bị cáo S đi lên phòng gặp, cùng Đ sử dụng ma túy đá. Sau đó, S bán xe Vision cho Đ với số tiền 4.000.000 đồng, S mua ma túy của Đ với số tiền 1.000.000 đồng, được 01 gói ma túy, trừ tiền S nợ Đ trước đó với số tiền 2.000.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng. Bị cáo S cất giấu toàn bộ ma túy trong người (gồm số ma túy vừa mua được và số ma túy đã mua vào ngày 15/6/2020). Sau đó, S lấy xe Exciter chạy đi chơi, ăn uống, tiêu xài hết 1.000.000 đồng.
Đến khoảng 14 giờ 00 cùng ngày 16/6/2020, Võ Ngọc S điều khiển xe Exciter đến tiệm sửa xe tại địa chỉ đường P, phường P1, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh gửi xe lại để sửa. S nói với tiệm sửa xe mình tên Tèo, sử dụng số điện thoại 0925309780 để tiệm sửa xe viết hóa đơn cho S rồi đi nhờ xe người đi đường về nhà. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày 16/6/2020, S bị công an huyện Cần Giờ phát hiện, bắt quả tang có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Cần Giờ đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Võ Ngọc S tại ấp B, xã B, huyện C nhưng không thu giữ vật chứng liên quan.
Tại Cơ quan điều tra, Võ Ngọc S khai nhận mục đích mua ma túy là để sử dụng, người bán ma túy cho S vào ngày 15, 16/6/2020 và mua chiếc xe Vision biển số: 86B7-YYY.YY là Nguyễn Trọng Đ, S thường gặp Đ mua ma túy ở trước phòng trọ nói trên. Sự đã mua ma túy của Đ 04 lần, lần 01 số tiền 200.000 đồng; lần 02 số tiền 500.000 đồng; lần 3 số tiền 700.000 đồng; lần 4 số tiền 1.000.000 đồng. Từ lời khai của S, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Cần Giờ đã phối hợp với Cơ quan cảnh sát điều tra công an Quận 7 kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Trọng Đ có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà trọ K, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cần Giờ, Võ Ngọc S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng Nguyễn Trọng Đ vẫn không thừa nhận việc bán ma túy cho S, đồng thời khai nhận khi bán chiếc xe Vision, S nói xe của người nhà cho nên Đ không biết do S trộm cắp mà có. Ngày 18/6/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 có Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 182 và Quyết định khởi tố bị can số 184 đối với Nguyễn Trọng Đ về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” (BL 175, 176).
Tại bản Kết luận giám định số 1015/KLGD-H ngày 24/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 38) kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,5205 gam, loại Methamphetamine.
Tại Biên bản định giá tài sản số 11/2020/BB.GĐ.TSCA ngày 23/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cần Giờ (BL 41) kết luận: 01 xe máy Exciter biển số 54T3-LLLL có giá trị là 13.500.000 đồng; 01 xe máy Vision, biển số 86B7-YYY.YY có giá trị là 15.000.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 28.500.000 đồng.
Chiếc xe Vision biển số 86B7-YYY.YY của bà Nguyễn Thị Ngọc T là chủ sở hữu; chiếc xe Exciter biển số 54T3-LLLL của ông Hà Thái H là chủ sở hữu. Trong giai đoạn điều tra, bà Nguyễn Thị Ngọc T có yêu cầu bị cáo Sự bồi thường thiệt hại với số tiền 8.000.000 đồng, ông Hà Thái H không yêu cầu Sự bồi thường. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà T và ông H có đơn xin vắng mặt và không yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc S phạm “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tội Trộm cắp tài sản” 2. Hình phạt:
Áp dụng Điều 38; điểm s, u khoản 1 Điều 51; điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Võ Ngọc S 07 (bảy) năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng Điều 38; điểm s, u khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52;
điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Võ Ngọc S 04 (bốn) năm tù về “Tội Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tổng hợp hình phạt đối với 02 tội là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2020.
Ngoài ra, bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 10/12/2020, Tòa án nhân dân huyện Cần Giờ có Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số 10/2020/TB-TA, nội dung sửa chữa “Áp dụng Điều 50 của Bộ luật Hình sự” thành “Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự”.
Sau khi xử sơ thẩm, ngày 10/12/2020, bị cáo Võ Ngọc S có đơn kháng cáo, nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Ngọc S khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản án sơ thẩm ghi nhận và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo cho biết hiện cha bị cáo bị tai nạn lao động, có vợ đang ly thân và 01 con nhỏ sinh năm 2017 hiện do vợ nuôi dưỡng; bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để về chăm sóc cha và con còn nhỏ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, mức độ của hành vi phạm tội, nhận định bị cáo từng nhiều lần bị kết án về tội phạm chiếm đoạt tài sản, từng bị xử lý hành chính nhưng không tu dưỡng bản thân, làm người lương thiện; bị cáo chưa được xóa án tích nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, lượng ma túy và trị giá tài sản được quy định tại điểm o, g khoản 2 Điều 249 và điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và còn chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội từ 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; bản thân bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, mức hình phạt đã tuyên là phù hợp. Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cho rằng tình tiết lập công chuộc tội mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng là chưa chính xác vì ông Nguyễn Trọng Đ không bị xem xét trách nhiệm hình sự trong vụ án này nên Tòa án cấp sơ thẩm cần thiết rút kinh nghiệm; ngoài ra, việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định 4.000.000 đồng mà Nguyễn Trọng Đ bán xe là số tiền thu lợi bất chính và buộc nộp là không phù hợp do không có cơ sở xử lý ông Đ về “Tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Từ đó, Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm phần hình phạt; không áp dụng tình tiết tại điểm u khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và không buộc ông Nguyễn Trọng Đ nộp số tiền 4.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng 08 giờ 00 ngày 15/6/2020, Võ Ngọc S có hành vi mua ma túy cất giấu trong người, mục đích để sử dụng; đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 16/6/2020, bị cáo bị phát hiện, bắt quả tang cùng với tang vật, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,5205 gam, loại Methamphetamine.
Cũng trong khoảng thời gian này, cụ thể vào lúc 23 giờ 00 ngày 15/6/2020 và 05 giờ 30 phút ngày 16/6/2020, bị cáo S có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 chiếc xe máy, gồm 01 chiếc xe Vision biển số 86B7-YYY.YY (của bà Nguyễn Thị Ngọc T), 01 chiếc xe Exciter biển số 54T3-LLLL (của ông Hà Thái H) tại địa chỉ ấp B, xã B1, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua định giá, xe biển số: 54T3-LLLL có giá trị là 13.500.000 đồng; xe biển số: 86B7-YYY.YY có giá trị là 15.000.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 28.500.000 đồng.
Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 249 và Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo Võ Ngọc S về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “ Tội Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định là hợp lệ.
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Ngọc S cho biết có tên gọi khác là P, có vợ và 01 con sinh năm 2017; năm 2006, từng bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa người vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng vì nhiều lần trộm cắp.
Lý lịch bị can, Danh bản, Trích lục tiền án, tiền sự (BL 82-83, 43, 45) ghi nhận bị cáo Võ Ngọc S có tên gọi khác là P nhưng không ghi nhận thông tin về vợ, con của bị cáo; hồ sơ vụ án có Quyết định về đưa người vào trường giáo dưỡng số 1036/QĐ-UBND ngày 26/10/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa người vào trường giáo dưỡng với thời hạn 24 tháng đối với bị cáo.
Từ đó, Hội đồng xét xử bổ sung tên gọi khác vào phần lý lịch bị cáo và phần quyết định bản án hình sự phúc thẩm, bổ sung thông tin về việc áp dụng biện pháp đưa người vào trường giáo dưỡng năm 2006 đối với bị cáo; riêng thông tin vợ, con, ngoài lời khai của bị cáo thì không còn tài liệu nào khác thể hiện nên Hội đồng xét xử ghi nhận như phần đầu bản án.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo và đề nghị của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:
Bị cáo Võ Ngọc S đã từng bị kết án vào các năm 2012, 2013, 2015, 2017, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; từ kết luận giám định và kết quả định giá cho thấy Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249 và điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Quá trình điều tra vụ án, bị cáo Võ Ngọc S thành khẩn khai báo hành vi phạm tội (được thể hiện qua Bản nhận xét thái độ khai báo của người bị tạm giữ, tạm giam ngày 22/9/2020 của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện Cần Giờ - BL 181). Hồ sơ vụ án cũng thể hiện, từ lời khai của bị cáo, Cơ quan công an đã tiến hành ghi lời khai của ông Nguyễn Trọng Đ (Biên bản ghi lời khai ngày 17/6/2020 của ông Đ – BL 169-170) và việc ghi lời khai này được thực hiện cùng ngày với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; trước khi có Quyết định khởi tố vụ án số 182 và Quyết định khởi tố bị can số 184 cùng ngày 18/6/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đối với ông Đ (BL 175, 176), phù hợp với diễn biến vụ án được ghi nhận tại hồ sơ vụ án. Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, u khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phù hợp với diễn biến vụ án, trên cơ sở đề nghị của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cần Giờ (Bản Kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố số 30/CSĐT (ĐTMT) ngày 22/9/2020 – BL 182-184) và của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ (Cáo trạng số 32/CT- VKS-H.CG ngày 08/10/2020 – BL 190-192).
Từ đó cho thấy mức hình phạt 07 năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 04 (bốn) năm tù về “Tội Trộm cắp tài sản” mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt là đã cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết nào mới để xem xét, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt.
Đối với đề nghị xem xét việc không buộc ông Nguyễn Trọng Đ nộp số tiền 4.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước, Hội đồng xét xử nhận thấy ông Đ mua chiếc xe Vision từ bị cáo mà không có giấy tờ xe kèm theo và không có cơ sở cho thấy được mua từ chủ sở hữu hợp pháp (xe chính chủ), sau đó, ông Đ bán lại chiếc xe khi bản thân cũng không là người sở hữu hợp pháp, thu lợi số tiền trên. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định về mối quan hệ này tại mục [5] của Bản án hình sự sơ thẩm (“Đối với số tiền bán xe Vision mà Đ khai đã bán cho Hải được 4.000.000 đồng, đây là số tiền thu lợi bất chính nên buộc Đ nộp sung quỹ nhà nước. Riêng số tiền S khai đã bán chiếc xe Vision cho Đ được 4.000.000 đồng, trong quá trình điều tra Đ không có yêu cầu, tại phiên tòa Đ vắng mặt nên dành quyền khởi kiện cho Đ trong vụ án dân sự khác khi Đ có yêu cầu”) và quyết định tuyên buộc ông Đ nộp lại số tiền 4.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước là phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo (về việc xin giảm nhẹ hình phạt), không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên (về việc không áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm u khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và không buộc ông Đ nộp lại số tiền 4.000.000 đồng sung vào ngân sách nhà nước); giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Ngọc S. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
1. Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc S (P) phạm “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tội Trộm cắp tài sản” 2. Hình phạt:
Áp dụng Điều 38; điểm s, u khoản 1 Điều 51; điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Võ Ngọc S (P) 07 (bảy) năm tù về “Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng Điều 38; điểm s, u khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Võ Ngọc S (P) 04 (bốn) năm tù về “ Tội Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tổng hợp hình phạt đối với 02 tội là 11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2020.
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản số 82/2021/HS-PT
Số hiệu: | 82/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về