Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 83/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2021 và Thông báo số 05/TB-TA ngày 30 tháng 8 năm 2021 về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa đối với bị cáo:

Lê Ngọc T (Tên gọi khác: MN), sinh ngày 13 tháng 12 năm 1990, tại Quảng Trị;

Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Khu phố A, Phường B, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Ngọc C, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị Diệu D, sinh năm 1968; Gia đình có 04 anh, em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 12/10/2003, Công an Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức cảnh cáo.

- Ngày 05/11/2003, Công an Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức cảnh cáo.

- Ngày 27/12/2005, Chủ tịch UBND Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 22/12/2010, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt Lê Ngọc T 05 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 30/8/2012, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt Lê Ngọc T 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 28/5/2015, Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị xử phạt Lê Ngọc T 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo Lê Ngọc T bị tạm giữ, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 13/4/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Duy K, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn QT, xã HQ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 13/4/2021, Lê Ngọc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, gắn biển kiểm soát 74F1-050.** đi đến khu vực đường Trần Đại Nghĩa thuộc Khu phố 1, Phường 5, thành phố Đông Hà gặp một nam thanh niên tên gọi là H (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua ma túy tổng hợp hồng phiến. H đồng ý bán và đưa cho T một bao thuốc lá hiệu JET bên trong có chứa 18 viên ma túy hồng phiến được đặt ở trong hai đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu (01 ống chứa 10 viên, 01 ống chứa 08 viên) với giá 600.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cầm ở tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến trước số nhà 04 đường Dương Văn An thuộc Khu phố 1, Phường 5, thành phố Đông Hà thì bị Công an thành phố Đông Hà kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 18 (Mười tám) viên nén, hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY được đặt ở trong 02 đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu (01 ống chứa 10 viên, 01 ống chứa 08 viên);

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu JET;

- 01 (Một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, gắn biển kiểm soát 74F1-050.**, số máy: 5C6348335, số khung: RLCS5C630BY483296, đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 437/KLGĐ ngày 15/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 18 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY (được chứa trong 02 đoạn ống nhựa màu trắng được niêm phong kí hiệu M) gửi đến giám định có khối lượng 1,8925 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 457/KLGĐ ngày 20/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 01 dấu vết đường vân thu được trên bề mặt túi nylon trong suốt bọc bên ngoài vỏ bao thuốc lá hiệu JET gửi đến giám định với đường vân in ở ô “Cái phải” trên chỉ bản mang tên Lê Ngọc T, sinh năm 1990, nơi cư trú: Khu phố A, Phường B, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị là đường vân cùng của một người.

Cáo trạng số 88/CT-VKS-ĐH ngày 29/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố Lê Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Ngọc T từ 24 tháng đến 27 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy bao gói ma túy hoàn lại sau giám định; 01 hộp giấy màu đỏ, xanh bên ngoài có dòng chữ “bóng hồng ngoại”, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 biển kiểm soát 74F1-050.72.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, xác định được:

Với mục đích mua ma túy để sử dụng, vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 13/4/2021, Lê Ngọc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, gắn biển kiểm soát 74F1-050.** đi đến khu vực đường Trần Đại Nghĩa thuộc Khu phố 1, Phường 5, thành phố Đông Hà gặp một nam thanh niên tên gọi là H (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua 18 viên ma túy hồng phiến với giá 600.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, khi đang đi đến trước số nhà 04 đường Dương Văn An thuộc Khu phố 1, Phường 5, thành phố Đông Hà thì bị Công an thành phố Đông Hà kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số 437/KLGĐ ngày 15/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 18 viên nén hình tròn, màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ WY (được chứa trong 02 đoạn ống nhựa màu trắng được niêm phong kí hiệu M) gửi đến giám định có khối lượng 1,8925 gam, là ma túy loại Methamphetamine. Tại Kết luận giám định số 457/KLGĐ ngày 20/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 01 dấu vết đường vân thu được trên bề mặt túi nylon trong suốt bọc bên ngoài vỏ bao thuốc lá hiệu JET gửi đến giám định với đường vân in ở ô “Cái phải” trên chỉ bản mang tên Lê Ngọc T, sinh năm 1990, nơi cư trú: Khu phố A, Phường B, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị là đường vân cùng của một người.

Hành vi của Lê Ngọc T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét về tính chất, hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn là nguyên nhân dẫn đến gây mất tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Lê Ngọc T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Ngọc T không chịu tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ cận nghèo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét tính chất, mức độ, hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng nhưng bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo nhiều lần bị Tòa án đưa ra xét xử nhưng không lấy đó làm bài học cho mình mà tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung đối với yêu cầu đấu tranh phòng, chống ma túy trong giai đoạn hiện nay.

[7] Quá trình điều tra không xác định được nam thanh niên tên H là người bán ma túy cho Lê Ngọc T nên không có cơ sở để xử lý.

[8] Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành; bao bì gói ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với biển kiểm soát xe mô tô mang số 74F1-050.** thuộc sở hữu của anh Nguyễn Duy K nhưng anh K không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, số máy: 5C6348335, số khung: RLCS5C630BY483296 không có đăng ký, không rõ nguồn gốc, xuất xứ nên Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ để điều tra, xác minh làm rõ.

[9] Tiếp tục tam giam bị cáo Lê Ngọc T thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Ngọc T (Tên gọi khác: MN) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Lê Ngọc T 27 (Hai mươi bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 13 tháng 4 năm 2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01(một) phong bì niêm phong bao gói và mẫu vật trả lại sau giám định của phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Trị ký hiệu PS3A 077820; 01 (một) hộp giấy màu đỏ, xanh bên ngoài có dòng chữ “bóng hồng ngoại”, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 (một) biển kiểm soát xe mô tô 74F1-050.**.

(Vật chứng hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/8/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lê Ngọc T phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 96/2021/HS-ST

Số hiệu:96/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về