Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 95/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 95/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành - tỉnh Nghệ An, Toà án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2020/HSST, ngày 26 tháng 10 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:139 /2020/QĐ XXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo:

1.Họ và tên: Phạm Văn K (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1998, tại thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An;Nơi cư trú: Xóm 1, xã Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 9/12; Họ tên cha: Phạm Văn T, sinh năm 1970; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1974; Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Ngô Thị Tr, sinh năm 1999; Con: có 01 con 01 tuổi: Chưa có;Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2020 tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An cho đến nay.( Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2.Họ và tên: Trần Đình L (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 10 tháng 6 năm 1993 tại thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 1, xã Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Họ tên cha: Trần Đình H; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H (Đã chết);Anh chị em ruột trong gia đình có 02 người, bị cáo là con thứ hai;Vợ,con: Chưa có;Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2020 tại trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An cho đến nay.( Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng: Ông Phạm Văn S, sinh năm 1968 ( Vắng mặt) Trú tại : khối T, phường Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 25/8/2020,Trần Đình L gọi điện cho Phạm Văn K rủ K đi mua ma túy về sử dụng thì K đồng ý. K điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Serious biển kiểm soát 37L1- X đi đến trước khách sạn Mường Thanh, thị xã Hoàng Mai thì gặp Trần Đình L. Sau đó cả hai cùng đi theo đường quốc lộ 1A hướng ra phía tỉnh Thanh hóa. Khi đi đến khu vực trước quán lốp Tướng Nga tại khối T, phường Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An thì L dừng xe lại một lát sau đó điều khiển xe đi vào trong quán lốp Tướng Nga còn Phạm Văn K dừng xe ngoài đường. Khoảng 5 phút sau, Trần Đình L quay ra đi ra chỗ K đưa cho K 500.000 đồng để K mua ma túy còn L mệt nên không đi mua cùng được. Sau khi cầm tiền, K đổi xe mô tô của mình để lấy xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150 màu đen biển kiểm soát 37L1- X mà L điều khiển rồi đi ra khu vực Cầu Hổ, tỉnh Thanh Hóa thì gặp một người đàn ông lạ mặt. Gặp nhau Phạm Văn K hỏi mua 500.000 đồng ma túy, thì người này trả lời chỉ còn 300.000 đồng, K đồng ý đưa cho người đàn ông 500.000 đồng thì người này đưa lại cho K 01 gói nhỏ màu trắng, bên trong chứa các hạt dang tinh thể màu trẳng và 200.000 đồng tiền thừa. K gói ma túy và tiền để trong túi quần sau phía bên phải rồi điều khiển xe đi về thị xã Hoàng Mai. Đến khoảng 00 giờ 15 phút ngày 26/8/2020 khi Phạm Văn K đi qua khu vực cổng chào thuộc khối T, phường Q, thị xã Hoàng Mai thì bị Công an phường Q kiểm tra phát hiện bắt quả tang và thu giữ trong túi quần sau bên phải 01 gói nhỏ màu trắng có chứa các hạt dạng tinh thể màu trắng (nghi là ma túy); 01 điện thoại di động màu vàng nhãn hiệu IPHONE 7 PLUS; 01 xe mô tô nhãn hiệu EXCITER 150 biển kiểm soát 37L1- X. Toàn bộ vật chứng bị thu giữ và đối tượng được chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Hoàng Mai để điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Cơ quan CSĐT công an thị xã Hoàng Mai đã tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng và trưng cầu giám định chất ma túy tại phòng kỹ thuật Công an tỉnh Nghệ An. Tại Kết luận giám định số: 1237/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 29/8/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

Mẫu các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn K gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), các hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Văn K có khối lượng là 0,14 gam (Không phẩy mười bốn gam)

*Về vật chứng vụ án và tài sản liên quan:

- 01 gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng là 0,14 gam sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,04 gam, 01 túi ni lông màu trắng; 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu vàng. IC: 579C–E3092A đã qua sử dụng đã được Cơ quan điều tra chuyển Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai theo quy định.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER 150 màu đen, biển kiểm soát 37L1–X, quá trình điều tra xác định là xe của chị Nguyễn Thị P, quá trình tra chị P không biết việc K sử dụng xe máy của mình để đi mua ma túy nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho chị Nguyễn Thị P.

Tại bản cáo trạng số:92/CT-VKS-HM, ngày 23 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An đã truy tố Phạm Văn K, Trần Đình L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Phạm Văn K, Trần Đình L mỗi bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù .

Do các bị cáo là người mắc nghiện, điều kiện hoàn cảnh bị cáo khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

Bị cáo Phạm Văn K khai số ma túy bị thu giữ là bị cáo mua của một người đàn ông không rỏ danh tính , địa chỉ tại Cầu Hổ tỉnh Thanh Hóa, do không xác định được đối tượng nào có đặc điểm như lời khai của Phạm Văn K nên không có cơ sở để điều tra xử lý -Về vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại do Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu vàng, IC: 579C– E3092A đã qua sử dụng thu của Phạm Văn K. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này không liên quan đến việc phạm tội của hai bị cáo, nên cần tuyên trả lại cho bị cáo Phạm Văn K.

-Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn Khanh, Trần Đình L phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Trần Đình L và Phạm Văn K thống nhất cùng nhau mua ma túy về sử dụng. Sau khi Trần Đình L đưa cho Phạm Văn K 500.000 đồng thì K điều khiển xe Exciter 150 màu đen biển kiểm soát 37L1- X đi ra khu vực Cầu Hổ tỉnh Thanh Hóa mua của một người đàn ông lạ mặt khôn g rỏ danh tính địa chỉ 01 gói ma túy. Đến 00 giờ 25 phút ngày 26/8/2020 khi Phạm Văn K đang đi về đến khu vực Cổng chào thuộc khối Tân Thanh, phường Q, thị xã Hoàng Mai thì bị Công an phường Q, thị xã Hoàng Mai kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của K 01 gói nghi là ma túy có khối lượng 0,14 gam. Vật chứng nghi là ma túy thu giữ tại Phạm Văn K đã được Cơ quan điều tra trưng cầu giám định, đã được kết luận là ma túy (Methamphetamine).

Trên cơ sở lời khai nhận của các bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, cơ quan điều tra, điều tra viên đã tiến hành tố tụng điều tra như ra các quyết định, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Phạm Văn K , Trần Đình L, hỏi cung các bị can, thu thập các tài liệu chứng cứ để xử lý các đối tượng theo quy định của pháp luật. Mục đích của Phạm Văn K, Trần Đình L mua ma túy là để tàng trữ, cùng nhau sử dụng khi cần thiết, nên đủ căn cứ kết luận Phạm Văn K, Trần Đình L cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào kết quả điều tra, khối lượng ma túy thu giữ Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An truy tố Phạm Văn K, Trần Đình L theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội, đúng qui định của pháp luật.

Vụ án có hai bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội, Phạm Văn K, Trần Đình L đồng phạm với nhau về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tuy nhiên đồng phạm của các bị cáo là giản đơn.

Đây là một vụ án nghiêm trọng, hành vi tàng trữ chất ma túy do Phạm Đình L, Trần Đình L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật. Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, năng lực hành vi, chắc chắn bị cáo hiểu được tác hại của ma túy, nhà nước cấm sản xuất, mua bán,vận chuyển, tàng trữ chất ma túy, nếu người nào vi phạm bắt được sẽ bị xử lý nghiêm minh. Tuy biết vậy nhưng chỉ vì đua đòi dẫn đến nghiện ma túy không từ bỏ được, nên các bị cáo đã bất chấp pháp luật đã tàng trữ ma túy sau đó bị bắt và phải trả giá cho hành vi vi phạm pháp luật của mình.

Xét tính chất vụ án, khối lượng ma túy bị thu giữ và hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy do các bị cáo đã thực hiện, thấy rằng các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò vị trí, ngang nhau, nên cần xử lý hình phạt tương xứng như nhau. Việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để nhà nước buộc bị cáo phải cải tạo, giáo dục, qua đó để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật từ bỏ con đường phạm tội, trở thành con người có ích cho xã hội và gia đình là cần thiết.

[2] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự.

Lẽ ra phải xử phạt mỗi bị cáo với mức án 15 tháng tù, nhưng xét thấy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 nên cũng cần xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo, chỉ xử phạt mỗi bị cáo 12 tháng tù cũng đủ nghiêm.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo là người mắc nghiện, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

[5] Bị cáo Phạm Văn K khai số ma túy bị thu giữ là bị cáo mua của một người đàn ông không rỏ danh tính tại Cầu Hổ tỉnh Thanh Hóa, do không xác định được đối tượng nào có đặc điểm như lời khai của Phạm Văn K nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

[6] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ 01 gói ma túy (Methamphetamine) có khối lượng là 0,14 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,04 gam. Xét số ma túy còn lại chất cấm, nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 màu vàng, IC: 579C– E3092A đã qua sử dụng thu của Phạm Văn K, xác định không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER 150 màu đen, biển kiểm soát 37L1–X, quá trình điều tra xác định đây là xe của chị Nguyễn Thị P , chị P không biết việc K sử dụng xe máy của mình để đi mua ma túy nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho chị Nguyễn Thị P là đúng qui định.

[7] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn K 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo (ngày 26/8/2020).

2.Căn cứ vào khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Đình L 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo (ngày 17/9/2020).

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

-Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư bưu điện viền xanh đỏ kích thước 12cm x 18cm đã được niêm phong dán kín có chữ ký của các đối tượng Phạm Văn K và những người tham gia nhiêm phong.Trong phong bì có chứa võ bao niêm phong cũ; võ túi nilon màu trắng và khối lượng ma túy 0,04gam (Methamphetamine) đã được Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2020.

- Trả lại 01 điện thoại nhãn hiệu IPHONE7 Pus, IC: 579C–E3092A đã qua sử dụng cho Phạm văn K đã được Cơ quan cảnh sát điều tra công an thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2020.

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Phạm Văn K, Trần Đình L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 95/2020/HS-ST

Số hiệu:95/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về