Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 93/2021/HSST NGÀY 10/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 10 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm, công khai vụ án Hình sự thụ lý số: 64/2021/HSST, ngày 29 tháng 4 năm 2021, đối với:

- Bị cáo: Họ và tên Nguyễn Văn C (tên gọi khác: không); giới tính: Nam; Sinh ngày 12/10/1991, tại huyện N, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối 1, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; trình độ văn hoá: lớp 8/12. Họ tên cha Nguyễn Văn L, sinh năm 1963, Họ tên mẹ Kiều Thị TH, sinh năm 1967; anh chị em ruột có 02 người, bị cáo con thứ 2; vợ Nguyễn Thị H1, sinh năm 1992; có 1 con sinh năm 2019.

Tiền án:

+ Ngày 12/3/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 13 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số: 44/2018/HSST, ngày 12/3/2018, bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 07/12/2018.

+ Ngày 14/8/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số: 347/2019/HSST, ngày 14/8/2019, bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 25/4/2020.

Nhân thân:

+ Ngày 24/9/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về: “Tội cướp giật tài sản” tại Bản án số: 35/2009/HSST, ngày 24/9/2009, bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 28/5/2010.

+ Ngày 27/6/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về: “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số: 252/HSST, ngày 27/6/2012, bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 13/9/2013.

+ Ngày 10/4/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xử phạt 02 năm 02 tháng tù về: “Tội mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số: 22/2014/HSST, ngày 10/4/2014, bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 12/12/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/12/2020, sau đó bị tạm giam, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo:, Bà Nông Thị N, Luật sư, Văn phòng Luật sư Vinh Diện & Cộng sự, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An, Địa chỉ: Phòng **, Tòa nhà Y, Số 9A, đường N, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

- Người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1992;

Nơi cư trú: Xóm ML, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Công Th, sinh năm 1961;

Nơi cư trú: Khối TL, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 45 phút, ngày 23/12/2020, tại khu vực đường T, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An, Công an huyện Hưng Nguyên phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn C, sinh năm 1991 (Trú tại khối 1, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nghệ An) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ 01 (một) hộp nhựa hình trụ tròn bên trong có 01 gói ni lông màu trong suốt chứa một mảnh giấy mềm và 03 loại viên nén màu vàng có in chữ No see, No hear, No speak có tổng khối lượng 224,135 gam (Hai trăm, hai mươi tư phẩy một trăm ba mươi lăm gam).

Quá trình điều tra hành vi phạm tội của Nguyễn Văn C thể hiện như sau: Đầu tháng 12 năm 2020, C đi xe khách lên huyện N để gặp một người quen tên là L. Sau đó, L chở C đến quán ăn tại thị xã T, tỉnh Nghệ An để ăn uống. Tại đây, Công gặp Tr (C biết L và Tr vì trước đây C làm nghề phục vụ nhạc ở các quán karaoke trên địa bàn thành phố V, tỉnh Nghệ An). Qua nói chuyện, Tr hỏi C có mua thuốc lắc thì Tr bán rẻ cho, C đồng ý. Tr bán cho C 01 gói ma túy được bỏ trong một hộp nhựa với giá 28.000.000 đồng (Hai mươi tám triệu đồng). Sau đó, C đưa số ma túy này về thuê nhà nghỉ ở thành phố V, tỉnh Nghệ An để sử dụng dần. Đến ngày 22/12/2020, Nguyễn Văn C đến đường N, thành phố V, tỉnh Nghệ An thuê xe ô tô nhãn hiệu i10, biển số 37A- 57… để đi. Khoảng 17 giờ ngày 23/12/2020, C đưa số ma túy còn lại (Vẫn được cất trong hộp nhựa) bỏ vào xe ô tô, rồi đi đến nhà một người bạn ở phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An để chơi. Trước khi vào nhà bạn, C lấy hộp nhựa đựng số ma túy trên đưa ra khỏi xe ô tô và cất giấu ở một gốc cây tại đường T thuộc phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Sau đó, C lên xe ô tô để đến nhà bạn, khi đi được khoảng 15 mét (lúc đó khoảng 18 giờ 15 phút cùng ngày) thì bị Công an huyện Hưng Nguyên ra hiệu lệnh dừng xe và yêu cầu C đi đến vị trí đã cất giấu ma túy. Tại đây, Công an huyện Hưng Nguyên phát hiện dưới gốc cây có một hộp nhựa hình trụ, bên ngoài dán giấy nhiều màu sắc, ngoài cùng được dán băng dính màu đen. Nguyễn Văn C khai nhận bên trong hộp nhựa là ma túy bị cáo cất dấu để vào nhà bạn chơi. Cơ quan công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Theo biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại, xác định hộp nhựa hình trụ, có dán gấy nhiều màu sắc, bên ngoài có dán băng dính màu đen, bên trong hộp nhựa chứa một gói ni lông màu trong suốt, bên trong gói ni lông chứa một mảnh giấy trắng mềm và ba loại viên nén màu vàng có in chữ No see, No hear, No speak. Tổng khối lượng các viên nén màu vàng là 224,135 gam (Hai trăm hai mươi tư phẩy một trăm ba mươi lăm gam), sau khi lấy mẫu giám định đã niêm phong lại.

Tại Bản kết luận giám định số: 75/KL-PC09 (Đ2 - MT) ngày 28/12/2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

03 mẫu viên nén màu vàng (ký hiệu M1, M2 và M3) thu giữ Nguyễn Văn C gửi tới giám định đều là ma túy (MDMA). Số viên nén màu vàng (03 loại) thu giữ của Nguyễn Văn C có tổng khối lượng 224,135 gam (Hai trăm hai mươi tư gam phấy một trăm ba mươi lăm gam).

- Về vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ của Nguyễn Văn C gồm:

224,135 gam ma túy (MDMA), đã lấy mẫu giám định 13,58 gam, còn lại 210,555 gam;

01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng hồng, mặt sau của máy bị vỡ, trong máy gắn 01 sim có số thuê bao 0971761…, máy đã qua sử dụng;

01 (một) hộp nhựa hình trụ, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, có dính băng dính màu đen xung quanh hộp nhựa;

01 (một) xe ô tô Huyndai, loại i10, màu đỏ, biển số 37A- 57….

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Nguyên đã trả lại chiếc xe ô tô Huyndai i10 cho ông Nguyễn Quốc T, trú tại xóm 15, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An, theo Quyết định xử lý vật chứng số 03/CSĐT(HS- KT-MT), ngày 05/01/2021.

Tại bản Cáo trạng số: 88/CT-VKS-P1, ngày 20/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 4 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn C từ 19 đến 20 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” Hình phạt bổ sung, xét bị cáo sống phụ thuộc gia đình, tài sản không có cho nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

Về vật chứng, Kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Tịch thu tiêu hủy các chất ma túy 210,555 gam ma túy (MDMA) còn lại sau khi lấy mẫu giám định;

01 (một) hộp nhựa hình trụ, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, có dính băng dính màu đen xung quanh hộp nhựa thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn C là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng.

Tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Văn C 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng hồng, mặt sau của máy bị vỡ, trong máy gắn 01 sim có số thuê bao 0971761…, (Máy đã qua sử dụng) là chiếc điện thoại của bị cáo không liên quan đến tội phạm.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí toà án.

Người bào chữa cho bị cáo bà Nông Thị N đồng ý với tội danh và các tình tiết định khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố, áp dụng với bị cáo, không có tranh luận gì. Tuy nhiên, người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn hiện đang nuôi con nhỏ; bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức mà Kiểm sát viên đề nghị.

Bị cáo đồng ý với lời bào chữa của luật sư đã bào chữa cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Người bào chữa cho bị cáo đã tiến hành tố tụng như ra các văn bản tố tụng, quyết định tố tụng; lấy lời khai, hỏi cung bị can; trưng cầu giám định; kết luận giám định theo đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền mà Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa không có khiếu nại, kiến nghị về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa đều được thực hiện đúng pháp luật.

[2] Căn cứ buộc tội: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa công khai, bị cáo Nguyễn Văn C hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thừa nhận do làm công việc liên quan đến các quán Karaoke cho nên thường sử dụng ma túy, vì vậy khi thấy người khác bán ma tuy với giá rẻ đã mua tàng trữ để sử dụng. Trên cơ sở lời khai nhận của bị cáo, nhân chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định là hoàn toàn phù hợp với nhau, xét thấy đã có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Văn C phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố.

Bị cáo đã tàng trữ 224,135 gam (Hai trăm hai mươi bốn phẩy một trăm ba mươi lăm gam) ma túy (MDMA), chính vì vậy Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo theo điểm b, khoản 4 điều 249 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn chính xác.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tình tiết tăng nặng tái phạm nguy hiểm, ngày 14/9/2019 bị cáo tái phạm đã bị kết án 12 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Nhân thân của bị cáo xấu, đã nhiều lần bị kết án về các tội phạm về ma túy, bản thân lại mắc nghiện ma túy. Bị cáo phạm tội lần này được xác định là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn. Với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo, để đáp ứng nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên địa bàn; xét cần xét xử nghiêm minh với bị cáo để có tác dụng giáo dục, phòng ngừa.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, sống chung với bố mẹ đẻ, không có tài sản gì đáng giá như biên bản xác minh của Cơ quan điều tra, cho nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, Nguyễn Văn C khai mua bán ma túy của người đàn ông tên Tr, tuy nhiên bị cáo cũng không biết rõ lai lịch của người đàn ông này; Cơ quan điều tra không có cơ sở để tiến hành xác minh, điều tra để xử lý.

Đối với người đàn ông tên L mà bị cáo khai là bạn ở huyện N, người đã chở bị cáo đi ăn uống ở thị xã T, bị cáo không biết rõ lai lịch của người này, qua điều tra xác định người đàn ông này không có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do đó cơ quan điều tra không xử với người đàn ông tên L là có căn cứ.

[7] Vật chứng và xử lý vật chứng:

- Xét 210,555 gam ma túy (MDMA) còn lại sau khi lấy mẫu giám định; 01 (Một) hộp nhựa hình trụ, bên ngoài dấn giấy nhiều màu sắc, có dính băng dính màu đen, thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng hồng của bị cáo là tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, vì vậy tuyên trả cho bị cáo.

- Chiếc xe ô tô Huyndai i10 là xe thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Quốc T, trú tại xóm 15, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An, kinh doanh cho thuê xe tự lái. Chiếc xe ô tô không liên quan đến tội phạm cho nên Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu là có căn cứ.

[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Văn C phạm: “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Xử phạt Nguyễn Văn C 20 (Hai mươi) năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” .

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 23/12/2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

- Tịch thu hiêu hủy:

+ 01 (Một) hộp giấy được niêm phong bằng giấy trắng chứa đựng 210,555 gam ma túy (MDMA) còn lại sau khi lấy mẫu giám định;

+ 01(Một) hộp nhựa hình trụ, bên ngoài có dán giấy nhiều màu sắc, có băng dính màu đen xung quanh.

- Tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Văn C.

+ 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu trắng hồng, mặt sau máy bị vỡ, máy đã qua sử dụng.

(Chi tiết vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh Nghệ An và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp: 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo lên toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2021/HSST

Số hiệu:93/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về