Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 93/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 93/2021/HSST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2021/TLST- HS ngày 01 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2021/QĐXXST-HS ngày 14/7/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Chi T (Tên gọi khác: Nguyễn Chí T), sinh năm: 1985.

Giới tính: Nam.

ĐKHKTT và chỗ ở: số 10/22/338 ĐL, phường TB, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do Trình độ học vấn: 9/12.

Con ông Nguyễn Chi Th và bà Lê Thị Th.

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Vợ: Nguyễn Thị H.

Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011.

Tiền án: Không.

Tiền sự:

- Ngày 15/5/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thời hạn 18 tháng. T chấp hành xong ngày 20/11/2020.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/4/2021, chuyển tạm giam từ ngày 03/4/2021 tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Hải Dương đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Số 10/22/338 ĐL, phường TB, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Khu 4, phường NC, TP.Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

2. Anh Nguyễn Việt H, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Khu 19, phường NC, TP. Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Anh M, anh H vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 01/4/2021, Nguyễn Chi T điều khiển xe máy hiệu Honda, màu bạc, biển số 34N7- 2906, ra khu vực đường Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, thành phố Hải Dương mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và mua của một người đàn ông tên Gi (không rõ tuổi địa chỉ) 01 (một) gói ma túy tổng hợp với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). T cất ma túy trong túi quần phía sau đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 12 giờ 40 phút cùng ngày, khi T đi đến khu vực trước cửa nhà số 300 đường Ngô Quyền, phường Tân Bình, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, thì bị tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về Ma Túy- Công an thành phố Hải Dương, đang làm nhiệm vụ kiểm tra, thu giữ trong túi quần phía sau T đang mặc 01 (một) gói nilon màu trắng, kích thước khoảng (1,5x1,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể dạng cục màu trắng. T khai nhận là ma túy tổng hợp, mục đích cất giấu để sử dụng. Ngoài ra, lực lượng Công an còn thu giữ 01 (một) xe máy hiệu Honda, màu sơn bạc, biển số 34N7-2906 do T điều khiển. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn M và anh Nguyễn Việt H.

Tại Kết luận giám định số 177/KLGĐ- PC09 ngày 01/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận:

Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Chi T, gửi đến giám định khối lượng là: 0,307 gam (không phẩy ba trăm linh bẩy gam) là ma túy, loại Methamphetamine.

Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT: 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 97/CT-VKSTPHD ngày 30/6/2021,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 01/4/2021.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu huỷ: Lượng ma tuý hoàn lại sau giám định 0,263 gam Methamphetamine được đựng trong phong bì niêm phong số 177/KLGĐ- PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) và chị Nguyễn Thị H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda màu sơn bạc, BKS: 34N7- 2906 (theo tình trạng biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/7/2021).

- Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu lệ phí, án phí Toà án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, phù hợp lời khai của bị cáo, người làm chứng, Kết luận giám định, biên bản phạm tội quả tang. Hội đồng xét nhận thấy như sau:

[1] Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 01/04/2021, tại khu vực trước cửa nhà số 300 Ngô Quyền, phường Tân Bình, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Chi T đang cất giấu trái phép 0,307 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu sơn bạc, biển số 34N7-2906.

Bị cáo thực hiện hành vi lỗi cố ý biết việc làm của mình là sai vi phạm pháp luật. Bị cáo cất giấu trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi trên đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an ninh xã hội. Việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc đối với những đối tượng mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn khác trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức, sức khỏe con người. Bị cáo có nhân thân xấu có 01 tiền sự về quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, bị cáo chấp hành xong quyết định cai nghiện bắt buộc nhưng trong thời gian chưa xóa quyết định cai nghiện bắt buộc, bị cáo lại tiếp tục phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy cần có mức án nghiêm đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy 0,263 gam Methamphetamine.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu sơn bạc, biển số 34N7- 2906, đăng ký mang tên chị Nguyễn Thị Ng ở khu 8, phường TB, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Tháng 3 năm 2021, chị Ng đã bán chiếc xe trên cho Nguyễn Chi Th. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo xác định bị cáo mua xe tiền của bị cáo nhưng bị cáo và chị Nguyễn Thị H hiện vẫn sống chung là quan hệ vợ chồng, do vậy bị cáo xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản chung của bị cáo và vợ bị cáo chị H. Chị H vắng mặt nhưng thể hiện tại lời khai của chị tại Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, chị H xác định chiếc xe mô tô trên là tài sản chung của chị và bị cáo. Chị H và bị cáo cùng đề nghị Tòa án trả lại chiếc xe mô tô trên để bị cáo, chị H sử dụng làm phương tiện đi lại. HĐXX nhận thấy ngày 01/4/2021, T điều khiển xe mô tô kiểu dáng Honda, màu sơn bạc, biển số 34N7-2906 (xe của vợ chồng bị cáo) đi mua ma túy để sử dụng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an thành phố Hải Dương, kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía sau T đang mặc 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể dạng cục màu trắng, 01 (một) xe máy hiệu Honda, màu sơn bạc, biển số 34N7-2906 Tại Thông báo kết quả tra cứu xe máy vật chứng số 430 ngày 04/5/2021 của Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hải Dương. Nội dung tra cứu: Biển kiểm soát: 34N7-2906; số máy: 08G02411; số khung 0981032973. Kết quả tra cứu: '' Không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng". Do vậy tài sản chiếc xe mô tô trên T không dùng làm phương tiện phạm tội nên cần trả lại cho chị Nguyễn Thị H và bị cáo T là phù hợp pháp luật.

[7] Không làm rõ được người đàn ông tên Giao bán trái phép chất ma túy cho Thắng nên không có căn cứ xử lý là phù hợp pháp luật.

[8] Án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu lệ phí, án phí Toà án.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38; điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106; Điều 136 BLTTHS; Luật phí, lệ phí Toà án; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu lệ phí, án phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Chi T(tên gọi khác Nguyễn Chí T) 17 (mười bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 01/4/2021.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 0,263 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 177/KLGĐ-PC09 Công an tỉnh Hải Dương.

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) và chị Nguyễn Thị H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu sơn bạc, BKS: 34N7- 2906.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Dương với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 08/7/2021).

- Án phí: Bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Chi T (tên gọi khác Nguyễn Chí T) có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án phần liên quan trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 93/2021/HSST

Số hiệu:93/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về