Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐL - TỈNH LĐ

BẢN ÁN 90/2024/HS-ST NGÀY 10/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 4 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2024/QĐXXST-HS ngày 27/3/2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1985, tại: Bình Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: LTE, đường Hùng Vương, Phường H, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ; nơi cư trú: Hẻm 47 Cao Thắng, Phường G, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Thợ sơn; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Con ông: Trần L (đã chết) và bà: Nguyễn Thị Thanh V (đã chết); vợ: Nguyễn Thị Thu Thảo, sinh năm: 1994 (không đăng ký kết hôn); có 01 con, sinh năm: 2023 (chưa đăng ký khai sinh); chức vụ, đoàn thể, đảng phái:

Không; tiền án, tiền sự: Không. NH thân:

- Tại Bản án số 1257/2005/HSPT ngày 22/7/2005 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP H đã xử phạt Trần Nguyễn Ngọc H 14 năm tù về tội “Giết người” (đã chấp hành xong toàn bộ bản án).

- Tại Bản án số 144/2016/HSST Ngày 18/10/2016 của Toà án nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ xử phạt Trần Nguyễn Ngọc H 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong toàn bộ bản án).

- Tại Bản án số 41/2018/HSST ngày 10/4/2018 của Tòa án nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ xử phạt Trần Nguyễn Ngọc H 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong toàn bộ bản án).

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 18/11/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố ĐL, Tỉnh LĐ.

- Người chứng kiến: Ông Bùi Văn T, sinh năm: 1967; địa chỉ: Số 47 Nguyễn Văn Trỗi, Phường C, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ.

(Bị cáo có mặt, người chứng kiến vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Nguyễn Ngọc H là người sử dụng ma túy đá từ tháng 7/2023, Thông qua mối quan hệ ngoài xã hội, H quen biết với một người tên là “Kchum” có bán ma túy đá, nhà ở khu vực xã ĐS, huyện LD, tỉnh LĐ. Vào khoảng 17 giờ ngày 16/11/2023, sau khi làm sơn nước ở nhà một người bạn tên Hòa tại xã ĐS, huyện LD, Tỉnh LĐ xong, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên H liên lạc với Kchum hỏi mua 100.000 đồng (một trăm ngàn đồng) ma túy đá, thì Kchum đồng ý và hẹn H ra khu vực trường học cách nhà H khoảng 01km để giao ma túy. H một mình đến bên hông trường học gặp Kchum và đưa 100.000 đồng cho Kchum, Kchum nhận tiền và đưa cho H 01 gói ma túy đá. Mua ma túy xong H bỏ gói ma túy đá vào ví da màu đen của H rồi về phòng trọ tại Hẻm 47 Cao Thắng, Phường G, Thành phố ĐL, Tỉnh LĐ. Vào khoảng 14 giờ ngày 18/11/2023, H cất ví da có ma túy đá vào túi quần phía ngoài bên trái rồi điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường Nguyễn Công Trứ, thành phố ĐL, tỉnh LĐ; khi đến đoạn đường trước số nhà 75 Nguyễn Công Trứ, Phường C, TP ĐL, LĐ thì bị Tổ tuần tra của phòng Cảnh sát Cơ động Công an tỉnh LĐ yêu cầu dừng xe do không đội mũ bảo hiểm. Sau đó, tổ tuần tra đưa H về trụ sở Công an Phường C, thành phố ĐL để làm việc. Quá trình kiểm tra Công an Phường C, TP. ĐL đã test nhanh ma túy đối với H, kết quả là dương tính ma túy đá, tiếp tục kiểm tra phát hiện trong túi quần phía ngoài bên trái H đang mặc có 01 ví da màu đen, bên trong có 01 (một) gói ma túy đá do H mua của Kchum để sử dụng. Công an Phường C, TP. ĐL đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H, thu giữ và niêm phong ma tuý của H theo quy định (BL: 34, 35, 76-85).

* Tang vật tạm giữ:

- 01 (một) gói nylon màu trắng trong được hàn kín, chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy);

- 01 (một) bóp da màu đen;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím bấm đã qua sử dụng bên trong có gắn sim số 03567xxxx.

Tại kết luận giám định số 1261/KL-KTHS ngày 23/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LĐ kết luận:

Mẫu tinh thể (ký hiệu M) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2670g (không phẩy hai sáu bảy không gam), loại Methamphetamine.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, STT: 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ (BL: 43).

Tại bản cáo trạng số 126/CT-VKSĐL-LĐ ngày 21/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL truy tố bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H khai nhận, bản thân bị cáo có sử dụng ma túy nên có mua ma túy về cất giữ để sử dụng. Khoảng 14 giờ ngày 18/11/2023, khi H đang lưu thông trên đường Nguyễn Công Trứ, Phường 8, Thành phố ĐL thì bị Tổ tuần tra của phòng Cảnh sát Cơ động Công an tỉnh LĐ kiểm tra hành chính và đưa về Công an Phường C, Thành phố ĐL làm việc, qua kiểm tra phát hiện trong túi quần phía ngoài bên trái H đang mặc có 01 ví da màu đen, bên trong có 01 (một) gói ma túy đá của H cất giữ để sử dụng như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác; bị cáo không thắc mắc, khiếu nại về cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo H từ 24 (hai mươi bốn) đến 30 (ba mươi) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã qua giám định và 01(một) bóp da màu đen; tịch thu bán sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím bấm, đã qua sử dụng có gắn sim số 03567xxxx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố ĐL, tỉnh LĐ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H: Là người sử dụng ma túy và để có ma túy sử dụng, vào ngày 16/11/2023, tại khu vực bên hông trường học xã ĐS, huyện LD, tỉnh LĐ, Trần Nguyễn Ngọc H mua một gói ma túy của một người thanh niên tên “Kchum” (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 100.000 đồng rồi đem về phòng trọ tại hẻm Cao Thắng Phường G, Thành phố ĐL, tỉnh LĐ cất giữ để sử dụng. Khoảng 14 giờ ngày 18/11/2023, khi H đang lưu thông trên đường Nguyễn Công Trứ, Phường 8, Thành phố ĐL thì bị Tổ tuần tra của Phòng Cảnh sát Cơ động Công an tỉnh LĐ kiểm tra hành chính và đưa về Công an Phường C, Thành phố ĐL làm việc, qua kiểm tra Công an Phường C, Thành phố ĐL phát hiện trong túi quần phía ngoài bên trái H đang mặc có 01 ví da màu đen, bên trong có 01 (một) gói ma túy đá của H cất giữ để sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số 1261/KL-KTHS ngày 23/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LĐ kết luận: Mẫu tinh thể (ký hiệu M) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2670g (không phẩy hai sáu bảy không gam), loại Methamphetamine.

[3] Xét thấy, bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H là người đã trưởng thành; có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và là đối tượng sử dụng ma túy. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng là đối tượng sử dụng ma túy và để có ma túy sử dụng bị cáo vẫn thực hiện nhằm thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Hành vi của Trần Nguyễn Ngọc H không chỉ vi phạm pháp luật về chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương mà còn là một trong những nguyên nhân góp phần gây ra những tệ nạn xã hội khác. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa; lời khai của bị cáo, của người chứng kiến trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của Trần Nguyễn Ngọc H phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như cáo trạng số 126/CT-VKSĐL-LĐ ngày 21/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL, tỉnh LĐ truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Do bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Trong vụ án này có đối tượng tên K chum đã bán ma túy cho H, tuy nhiên H không biết gì về nhân thân, lai lịch của người này, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố ĐL đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Điều tra đã thu giữ tang vật gồm: 01 gói ma túy và 01 ví da màu đen, là chất cấm lưu hành và dụng cụ cất giữ ma túy không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia bàn phím bấm, đã qua sử dụng có gắn sim số 03567xxxx, là phương tiện bị cáo liên lạc để mua ma túy nên tịch thu bán sung Ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giam 18/11/2023.

2. Về xử lý vật chứng:Áp dụng điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm:

- 02 (hai) phong bì niêm phong, có chữ ký ghi họ tên của Phạm Thị D, Hoàng Thị Thanh H, Ngô Văn NH và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh LĐ.

+ Phong bì 1: Chứa bao gói trước giám định.

+ Phong bì 2: Hoàn mẫu, m: 0,1240g - 01 bóp da màu đen.

2.2. Tịch thu bán sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, có gắn sim số 03567xxxx.

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 21/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố ĐL và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố ĐL).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Nguyễn Ngọc H phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2024/HS-ST

Số hiệu:90/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về