Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyn Huỳnh T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 27/6/1994, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Thôn 4, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng và nơi cư trú khi bị bắt: Số 104 N, thôn A, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Thanh V, sinh năm 1969 và bà Huỳnh Thị Ngọc L, sinh năm 1975; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không.

- Tiền sự: Ngày 19/10/2020 bị Công an huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 3.000.000 đồng về hành vi dùng dao chém gây thương tích 06% cho anh Huỳnh Xuân An. Nộp phạt xong vào ngày 19/7/2021, chưa được xóa.

- Nhân thân: Ngày 05/9/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 08 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 25/2014/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 25/01/2019.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Tạm giam tại Nhà tạm gi Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 05/5/2022 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 10 giờ 40 phút ngày 05/5/2022, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Tp. B phối hợp với Công an xã L, Tp. B tiến hành kiểm tra căn phòng biệt lập sau nhà số 104 N, xã L, Tp. B. Tại thời điểm kiểm tra, trong phòng gồm có: Nguyễn Huỳnh T; Huỳnh Thị Kim N, sinh năm 1991, nơi đăng ký thường trú: Tổ 3, phường 2, Tp. B; Phạm Khắc D, sinh năm 1989, nơi đăng ký thường trú: Ấp 4, xã T, huyện T, Đồng Nai; Nguyễn H u M, sinh năm 1985, nơi đăng ký thường trú: R, xã P, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Nguyễn Chí T, sinh năm 1977, nơi đăng ký thường trú: thôn 1, xã Đ, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng và Đặng Văn T, sinh năm 1981, nơi đăng ký thường trú: Số 104 N, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng, phát hiện trên nệm ở vị trí ngay cạnh Nguyễn Huỳnh T đang ngồi có 01 túi xách màu đen ghi ch Hree-box, bên trong túi xách có 01 gói nylon màu trắng, rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu xanh, kích thước 04cm x 04cm chứa 01 viên nén màu hồng và 01 gói nylon màu trắng có rãnh khép kín, vạch kẻ ngang màu xanh kích thước 04cm x 04cm chứa 03 viên nén màu hồng nghi là ma túy. Theo khai nhận của Nguyễn Huỳnh T thì 02 gói nylon này có chứa ma túy “kẹo”, T tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Cơ quan CSĐT Công an Tp. B đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Huỳnh T và đồng thời thu gi toàn bộ tang vật nói trên.

Quá trình điều tra xác định nội dung cụ thể như sau: Vào buổi chiều một ngày đầu tháng 05/2022, có một người bạn của Nguyễn Huỳnh T tên S (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến chơi với T tại căn phòng biệt lập ngay sau nhà số 104 N, xã L, Tp. B. S đã cho T 08 viên ma túy kẹo dạng viên nén màu hồng. T lấy ra sử dụng hết 04 viên, còn lại 04 viên thì T cho vào trong 02 gói nylon rồi cất vào trong túi xách của T nhằm mục đích sử dụng dần. Đến ngày 05/5/2022, tại số nhà 104 N, xã L, Tp. B, Nguyễn Huỳnh T bị Công an Tp. B tiến hành kiểm tra, phát hiện và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu gi tang vật nêu trên.

Tại Kết luận giám định số 471/KL-KTHS ngày 10/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: mẫu 04 viên nén màu hồng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,3569g, loại MDMA.

MDMA là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT: 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 90/CT-VKSBL, ngày 28 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Huỳnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng gi nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Huỳnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh T từ 02 năm đến 03 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, cơ quan Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng đã thu gi : Vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong số 471/GĐ-PC09.

+ 01 túi xách da màu đen có ghi chữ hree box.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, là sai trái, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt được sớm trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Huỳnh T đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung Kết luận giám định; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của nh ng người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 05/5/2022, tại số nhà 104 N, xã L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng, cơ quan Công an Tp. B tiến hành kiểm tra, phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Huỳnh T đã tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 1,3569g, loại MDMA, nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng 1,3569g gam bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì thái độ xem thường pháp luật, cũng như nhằm mục đích thoả mãn cho nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm nghiêm trọng, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam gi trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma tuý nên miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau: Vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm:

+ 02 phong bì niêm phong số 471/GĐ-PC09.

+ 01 túi xách da màu đen có ghi chữ hree box.

[10] Các vấn đề khác:

Trong vụ án có đối tượng tên S là người đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo T. Tuy nhiên, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của S nên Cơ quan Công an Tp. B tách ra tiếp tục xác minh khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với chị Huỳnh Thị Kim N, anh Phạm Khắc D, anh Nguyễn H u M, anh Nguyễn Chí T, anh Đặng Văn T là nh ng người ở cùng T tại thời điểm bị Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Quá trình điều tra xác định, nh ng người này không có hành vi giúp sức , không biết việc T tàng trữ trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự về vai trò đồng phạm.

[11] Xét ý kiến trình bày luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã được kiểm tra tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Huỳnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Huỳnh T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/5/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu huỷ gồm:

+ 02 phong bì niêm phong số 471/GĐ-PC09.

+ 01 túi xách da màu đen có ghi chữ hree box.

Theo biên bản bàn giao vật chứng, tài sản ngày 02/8/2022 gi a cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Huỳnh T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về