Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 20/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 37/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 28/2022/HSST-QĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022, đối với các bị cáo:

1. Đồng Ngọc T, sinh năm 1996 tại H, giới tính: nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu vực 1, phường 4, thành phố V, tỉnh H; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: Lớp 07/12; dân tộc: Khmer; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đồng Văn D, sinh năm 1969 và Thị N, sinh năm 1969; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2021 cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Văn T2, sinh năm 2000 tại Hậu Giang, giới tính: nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp Minh Giồng, xã Vân Khánh Đ, huyện A, tỉnh K; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1973 và Bùi Thị Bé B, sinh năm 1977; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2021 cho đến nay; có mặt.

3. Lương Công Đ, sinh năm 2000 tại Đ, giới tính: nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Nam T, xã Nam X, huyện K, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: Lớp 07/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn P, sinh năm 1965 (đã chết) và bà Vi Thị S, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2021 cho đến nay; có mặt.

4. Nguyễn Trung H, sinh năm 2000 tại K, giới tính: nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã Vĩnh Hòa Hưng B, huyện G, tỉnh K; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 và Phan Thị Thanh H, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2021 cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ và Nguyễn Trung H có mối quan hệ quen biết nhau T, T2, Đ và H đều là đối tượng nghiện ma túy, loại Methamphetamine.

Khoảng 06 giờ ngày 27/10/2021, T, H, T2 đến phòng trọ số 13 của Đ thuộc khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để chơi. Trong lúc đang nói chuyện với nhau, T rủ H, T2 và Đ mỗi người góp 100.000 đồng để mua ma túy về sử dụng, tất cả đồng ý. Do H, T2 và Đ không có tiền nên T ứng tiền trước để mua ma túy. Sau khi thỏa thuận xong, T đi ra khu vực phía trước nhà trọ của Đ gặp đối tượng tên Đức (không rõ lai lịch) nhờ Đức mua ma túy giùm, Đức đồng ý. Đức điện thoại cho đối tượng (không rõ lai lịch) để hỏi mua ma túy. Khoảng 10 phút sau có một đối tượng (không rõ lai lịch) điều khiển xe Wave đến đưa cho T 01 khẩu trang y tế màu xanh bên trong chứa 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 nỏ thủy tinh bên trong có một ít tinh thể màu trắng. T đưa đối tượng (không rõ lai lịch) số tiền 400.000 đồng. Sau đó, T bỏ khẩu trang y tế màu xanh bên trong chứa 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 nỏ thủy tinh bên trong có một ít tinh thể màu trắng vào túi quần bên phải phía trước và đi về phòng trọ của Đ. Khi về đến phòng trọ, tất cả cùng lên gác phòng trọ của Đ để sử dụng ma túy. T lấy ra một ít ma túy bỏ vào nỏ thủy tinh để cùng sử dụng với Đ, T2 và H. Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, Công an phường Hội Nghĩa tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của Đ. Qua kiểm tra phát hiện trên gác có 01 khẩu trang y tế màu xanh bên trong chứa 02 gói nylon hàn kín và 01 nỏ thủy tinh. Công an phường Hội Nghĩa lập biên bản lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, Đ, T2 và H đồng thời thu giữ vật chứng gồm: 01 nỏ thủy tinh;

02 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 khẩu trang y tế màu xanh.

Công an phường Hội Nghĩa lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ và Nguyễn Trung H cùng hồ sơ, vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận giám định số 712/MT-PC09 ngày 03/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: 02 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine, khối lượng 0,1828 gam.

Cáo trạng số 56/CT-VKS-TU ngày 16/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ và Nguyễn Trung H về tội tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đồng Ngọc T mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lương Công Đ mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy:

01 (Một) bì thư đã được niêm phong ký hiệu 712/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methemphetamine khối lượng còn lại sau giám định; 01 (Một) nỏ thủy tinh; 01 (Một) khẩu trang y tế màu xanh.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không tranh luận.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2 Tại phiên tòa, các bị cáo Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ và Nguyễn Trung H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 27/10/2021, tại khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ, Nguyễn Trung H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine với khối lượng 0,1828 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện và thái độ coi thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện. Do đó, cần xử các bị cáo thật nghiêm mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T phạm tội với vai trò đề xuất, rủ rê, trực tiếp liên hệ và đi mua ma túy; các bị cáo sử dụng số tiền để mua ma tuý sử dụng là ngang nhau. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc đến nhân thân, vai trò và tính nguy hiểm của từng bị cáo cho phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với số ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là chất cấm; nỏ thủy tinh và khẩu trang y tế màu xanh là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[9] Đối với đối tượng tên Đức có hành vi mua ma túy giùm cho các bị cáo và người đàn ông có hành vi bán ma túy cho các bị cáo, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau, là phù hợp.

[10] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ, Nguyễn Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Đồng Ngọc T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2021.

- Xử phạt bị cáo Lương Công Đ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung H 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong ký hiệu 712/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methemphetamine khối lượng còn lại sau giám định; 01 (Một) nỏ thủy tinh; 01 (Một) khẩu trang y tế màu xanh.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngà 16 2 2 22 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên .

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Đồng Ngọc T, Nguyễn Văn T2, Lương Công Đ và Nguyễn Trung H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về