Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2022/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2022/QĐXXST - HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vàng A L - Sinh năm 1976; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản C, xã H, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Vàng A C1 (đã chết) và bà Sồng Thị C3 (đã chết); Có vợ là Giàng Thị V1 và 08 con (Con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 20/12/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 20/12/2021 tổ công tác Công an xã H, huyện S làm nhiệm vụ tại khu vực bản C, xã H, huyện S phát hiện Vàng A L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại túi áo khoác bên trái đang mặc của L 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa chất bột liên kết màu trắng, L khai nhận là Heroine.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ 01 xe mô tô BKS 26K1 – 208.29.

Ngày 21/12/2021 tại Công an huyện Sông Mã thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu giám định, kết quả: số bột màu trắng thu giữ của L có khối lượng 0,104 gam, trích 0,044 gam làm mẫu giám định ký hiệu L1, vật chứng còn lại 0,06 gam ký hiệu L.

Tại Kết luận giám định số 100 ngày 24/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy; Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,044gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,104gam loại Heroine”.

Quá trình điều tra bị cáo Vàng A L khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 20/12/2021, L mượn được xe mô tô BKS 26B1-208.29 của Thào A D (là con riêng của vợ) ở cùng bản C, xã H nói đi việc gia đình. Sau đó, L mang theo 50.000đ và điều khiển xe mô tô đến bản A, xã P, huyện K mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Đến bản A thì L gặp một người đàn ông không quen biết đang đi bộ dọc đường, L hỏi mua được của người này một ít Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng với giá 50.000đ. Mua được ma túy, L cất giấu vào túi áo khoác bên trái đang mặc rồi điều khiển xe quay về, khi về đến bản C, xã H thì gặp tổ công tác làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSSM ngày 22 tháng 3 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Vàng A L về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Vàng A L từ 14 -18 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 01 túi nilon cùng 01 mảnh nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 15 giờ 00 phút, ngày 20/12/2021 đối với Vàng A L cùng vật chứng bị thu giữ là 01 gói nilon có chứa chất bột màu trắng; Kết luận giám định số 100 ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận là ma túy: “… Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,104 gam, loại Heroine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã thường xuyên sử dụng ma tuý từ năm 2011 nên ngày 20/12/2021 đã hành vi tàng trữ 0,104 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 20/12/2021 bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,104 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và khối lượng ma túy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát BKS 26K1-208.29 bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy. Xác định được chiếc xe là tài sản hợp pháp của Thào A D cho bị cáo mượn, khi bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy Thào A D không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả lại xe mô tô cho D là phù hợp.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 01 túi nilon cùng mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là những vật Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Vàng A L phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vàng A L 14 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh nilon màu hồng và 0,060 gam Heroine được đựng trong 01 túi nilon; Tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 029642.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 26/QĐ – VKS ngày 22/3/2022 của VKSND huyện Sông Mã và theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/3/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 13/4/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về