Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU - TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 89/2022/HSST NGÀY 29/9/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 29/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2022/HSST ngày 15/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 87/2022/HSST-QĐXX ngày 19/9/2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn B, sinh năm: 1972; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: thôn Y, xã D, huyện K, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Nguyễn Văn L1 (Đã chết) và bà Dương Thị V (Đã chết). Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ ba; Có vợ là Phan Thị Thu P, sinh năm 1980 (Đã ly hôn) và có 03 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Chưa có.

- Nhân thân:

+ Ngày 29/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 25/8/2017.

+ Ngày 06/9/2018, bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 16/02/2020.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/6/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam - Công an tỉnh Hưng Yên (Có mặt tại phiên tòa).

*/Những người làm chứng:

1. Anh Hoàng Văn T2, sinh năm 1983;

2. Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1986;

Đều trú tại: thôn V1, xã H1, huyện K, tỉnh Hưng Yên (Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do nghiện chất ma túy nên khoảng 18 giờ 30 ngày 26/6/2022, Nguyễn Văn B mang theo số tiền 200.000đ đi bộ từ nhà đến ra Quốc lộ 39A hướng đi xã H1, huyện K để tìm mua chất ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực gần cổng làng thuộc thôn Đỗ Xá, xã H1, huyện K thì B gặp một người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi, đeo khẩu trang đang đứng ở cạnh đường Quốc lộ 39A, có biểu hiện giống người nghiện ma túy nên tiến lại gần và hỏi: “Có hàng không?” (Ý B hỏi người đàn ông này để có ma túy). Người đàn ông này hiểu ý B hỏi mua ma túy nên đồng ý bán rồi nhận số tiền 200.000đ của B đưa cho, đồng thời đưa cho B 01 gói giấy nhỏ màu trắng. B không mở ra kiểm tra nhưng tin chắc bên trong chứa ma túy nên cầm ở lòng bàn tay phải rồi đi tìm nơi vắng người để sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 05 phút cùng ngày, khi B đang trên đường Quốc lộ 39A thuộc thị tứ Bộ Thời, xã H1, huyện K thì bị lực lượng Công an huyện K phối hợp với Công an xã H1 kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ và niêm phong 01 gói giấy màu trắng trên theo quy định để gửi đi giám định.

Ti Bản kết luận giám định số 294/KL-KTHS(MT) ngày 29/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong, có khối lượng là: 0,173gam, là ma túy, là loại: Heroine. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã nhập kho vật chứng đối với 0,167gam Heroine hoàn lại sau giám định chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKSKC, ngày 15/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo B và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đề nghị xử phạt bị cáo B từ 02 năm 02 năm 06 tháng tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 26/6/2022; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo B. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K còn đề nghị về đường lối xử lý vật chứng trong vụ án.

- Bị cáo B nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K, đồng thời thành khẩn khai báo nhận tội, thái độ ăn năn hối cải, được nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo ở mức án thấp nhất.

- Những người làm chứng là anh Hoàng Văn T2 và anh Nguyễn Văn N đã được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án họ đã có lời khai rõ ràng, việc vắng mặt họ tại phiên tòa hôm nay không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: Quá trình điều tra bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật, không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo B đã thừa nhận do nghiện chất ma túy nên chiều tối ngày 26/6/2022, B mang theo số tiền 200.000đ đi mua chất ma túy của một người đàn ông khoảng hơn 40 tuổi, đeo khẩu trang đang đứng ở cạnh đường Quốc lộ 39A. Sau khi mua được ma túy, B cầm ở lòng bàn tay phải rồi đi tìm nơi vắng người để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện K phối hợp với Công an xã H1 kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ và niêm phong 01 gói giấy màu trắng trên theo quy định để gửi đi giám định. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản đóng, mở niêm phong; Lời khai của những người làm chứng là anh anh Hoàng Văn T2 và anh Nguyễn Văn N; Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên, phù hợp với vật chứng thu giữ được và tất cả các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 19 giờ 05 phút ngày 26/6/2022, tại đường Quốc lộ 39A thuộc thị tứ Bô Thời, xã H1, huyện K, Nguyễn Văn B đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,173gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố B theo tội danh và điều luật áp dụng trong Cáo trạng số 88/CT-VKSKC, ngày 15/9/2022 là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo B gây nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ: Bị cáo đã vi phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được Bộ luật hình sự bảo vệ. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân và là một trong những N nhân phát sinh ra nhiều tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an. Bản thân bị cáo B nhận thức rất rõ tác hại của ma tuý, biết được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã sẵn sàng vi phạm pháp luật, thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước. Bản thân bị cáo là một minh chứng rõ nét cho những điều phân tích nêu trên. Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc trước pháp luật.

[4]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4.1].Về nhân thân: Ngày 29/9/2016, bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 25/8/2017; Ngày 06/9/2018, bị Tòa án nhân dân huyện K xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 16/02/2020.

[4.2].Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo B từng bị 02 lần bị đưa ra xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng đối chiếu với quy định của Bộ luật Hình sự thì đã thuộc trường hợp được xóa án tích nên không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.3].Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo với thái độ ăn năn hối cải, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

Từ những nhận định, phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người khó cải tạo, đã từng nhiều lần bị kết án về tội phạm cùng loại “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nhưng sau khi chấp hành xong các bản án nêu trên bị cáo đã không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý. Do vậy, lần phạm tội này cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức T2 thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và cũng là đáp ứng nhu cầu phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định và việc bị cáo Tàng trữ trái phép chất ma túy cũng để phục vụ cơn nghiện của mình chứ không có mục đích tư lợi nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, để phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự để xử lý vật chứng như sau:

- Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật chứng trong vụ án được nhà nước độc quyền quản lý, cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy 0,167 gam Heroine hoàn lại sau giám định.

[7]. Về án phí: Buộc bị cáo B phải chịu án phí HSST là 200.000đ theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn B phạm “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn B 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 26/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo B.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy hủy 0,167 gam Heroine hoàn lại sau giám định. (Tình trạng vật chứng như trong quyết định chuyển vật chứng số 74/QĐ-VKS - KC ngày 15/9/2022 của VKSND huyện K).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo NguyễnVăn B phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/9/2022).

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2022/HSST

Số hiệu:89/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về