Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2022, tại Phòng xét xử của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 79/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:85/2022/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: HOÀNG B, sinh ngày 01 tháng 7 năm 1970, tại tỉnh Tuyên Quang. Nơi đăng ký HKTT, chỗ ở: Tổ dân phố 06, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông Hoàng Đắc M (đã chết) và con bà Vũ Thị B (đã chết).

Anh, chị, em ruột: Có 06 người, bị cáo là thứ năm.

Vợ, con: Không.

Tiền án: Bản án số 125/2017/HS-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt HOÀNG B 05 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành xong bản án ngày 29/4/2021).

Nhân thân: - Bản án số 40/HS-ST ngày 16/7/1994, của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Tuyên Quang (nay là thành phố T) xử phạt HOÀNG B 24 tháng tù về tội Tổ chức dùng chất ma túy.

- Bản án số 156/STHS ngày 12/12/2003, của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt HOÀNG B 12 tháng tù về tội Sử dụng trái phép chất ma túy.

- Quyết định số 56/QĐ-UB ngày 14/9/2005, của Ủy ban nhân dân phường M thị xã T (nay là thành phố T) về việc đưa HOÀNG B vào giáo dục và cai nghiện tại nơi cư trú.

- Quyết định số 1524/QĐ-CT ngày 28/11/2005 của Ủy ban nhân dân thị xã T (nay là thành phố T) về việc đưa HOÀNG B vào cai nghiện ma túy bắt buộc giai đoạn II tại Công trường 06, thị xã T.

- Quyết định số 05/QĐ-CT ngày 04/01/2007 của Ủy ban nhân dân thị xã T (nay là thành phố T) về việc đưa HOÀNG B cai nghiện từ công trường 06 về cai nghiện ma túy giai đoạn III tại xã phường.

- Bản án số 49/HSST ngày 17/7/2007, của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Tuyên Quang (nay là thành phố T) xử phạt HOÀNG B 30 tháng tù về tội Sử dụng trái phép chất ma túy.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 209/QĐ-XPHC ngày 29/5/2017, của Công an thành phố T đối với HOÀNG B về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, hình thức phạt tiền 750.000 đồng.

Bị cáo HOÀNG B bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/5/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang - Có mặt.

Người làm chứng: Anh Đoàn Xuân K, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Số nhà 40, tổ dân phố 04, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

HOÀNG B trú tại tổ dân phố 06, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy), khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18/5/2022, B điều khiển xe mô tô biển số 22K8-4629 (xe mượn của Phạm Thị T trú tại tổ dân phố 04, phường M, thành phố T) đến khu vực bến xe khách thành phố T, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Đến nơi, B gặp và mua được từ một người đàn ông tên P (B không biết rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể) 01 gói Heroine bọc ngoài bằng giấy có nhiều màu, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà với số tiền 200.000 đồng. Mua xong, B điều khiển xe mô tô đi tới khu vực vắng người, lấy một ít Heroine ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể, số Heroine còn lại B gói lại như cũ rồi cầm ở bàn tay trái và điều khiển xe mô tô đến quán nước của Phạm Thị T tại khu vực quảng trường Nguyễn Tất Thành thành phố T thì gặp Đoàn Xuân K trú tại tổ dân phố 04, phường M, thành phố T (là người quen của B) nhờ B chở về nhà, B đồng ý. B tiếp tục cầm gói Heroine ở bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô chở K đi đến khu vực tổ dân phố 05, phường M, thành phố T thì bị Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T kiểm tra phát hiện. B đã thả gói Heroine đang cầm trên tay xuống đất, tổ công tác lập biên bản niêm P thu giữ 01 gói Heroine có đặc điểm nêu trên và ra Lệnh giữ người trong truờng hợp khẩn cấp đối với HOÀNG B. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Bách, kết quả (+) dương tính có chất ma túy trong cơ thể.

Kết luận giám định số 569/KL-KTHS ngày 23/5/2022, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định (chất bột vón cục màu trắng thu giữ của HOÀNG B) là chất ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng là 0,092g (không phẩy không chín hai gam).

Vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 (Một) P bì niêm P còn nguyên vẹn, bên trong có chứa chất ma túy (đã giám định) mặt sau trên các mép dán có chữ ký của HOÀNG B, các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang. Tạm giữ 01 xe mô tô biển số 22K8-4629, ngày 30/6/2022 đã trả lại cho chủ sở hữu là Phạm Thị T.

Tại Cơ quan điều tra, HOÀNG B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của B còn được chứng minh bằng: Vật chứng thu giữ; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản Cáo trạng số: 87/CT-VKSTP, ngày 25 tháng 7 năm 2022, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố HOÀNG B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo B tiếp tục khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích để bản thân sử dụng chứ không bán cho ai, nhưng khi đang cất giấu 0,092g (Không phẩy không chín hai gam) Heroine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện và bắt giữ. Bị cáo có trực tiếp chứng kiến niêm P và mở niêm P phong bì ma túy đã thu giữ của bị cáo. Bị cáo không có ý kiến gì về kết quả giám định P bì đựng ma túy đã thu giữ của bị cáo và không yêu cầu giám định lại. Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, đã truy tố bị cáo là đúng tội, không oan.

Người làm chứng anh Đoàn Xuân K trình bày tại Biên bản ghi lời khai, Bản tự khai có lưu trong hồ sơ vụ án: Khoảng 13 giờ ngày 18/5/2022 HOÀNG B có mượn xe mô tô hai bánh của dì tôi đưa tôi về nhà. Trên đường đi thì bị Tổ công tác cơ động Công an thành phố T kiểm tra phát hiện B tàng trữ Heroine, nên lập biên bản bắt giữ, niêm P theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo HOÀNG B và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo HOÀNG B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo HOÀNG B từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 18 tháng 5 năm 2022.

Bị cáo B là người sử dụng ma túy; việc tàng trữ ma túy là để sử dụng không nhằm mục địch vụ lợi; bản thân bị cáo nghề nghiệp, thu nhập không ổn định; không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu huỷ 01 P bì niêm P bên trong có chứa chất ma túy loại Heroine.

Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo B không có ý kiến tranh luận gì với nội dung luận tội của Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng là xin Hội đồng xét xử xử phạt mức án nhẹ nhất để sớm về với gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên; của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luậ t tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Như vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định, nên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 30 phút ngày 18/5/2022, tại tổ dân phố 05, phường Minh Xuân, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. HOÀNG B trú tại tổ dân phố 06, phường M, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã có tiền 01 án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, lại tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép 0,092g (Không phẩy không chín hai gam) Heroine, mục đích để bản thân sử dụng, thì bị Tổ công tác của Công an thành phố T, phát hiện lập biên bản bắt giữ. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, truy tố HOÀNG B về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo B nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật; việc sử dụng ma tuý trái phép có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của bản thân và kinh tế gia đình, gây mất trật tự ở địa phương, góp phần làm gia tăng tệ nạn sử dụng trái phép chất ma tuý ở địa phương, nhưng bị cáo vẫn cố ý sử dụng ma tuý trái phép dẫn đến tàng trữ trái phép chất ma tuý. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng do lỗi cố ý, nên cần xử phạt bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật và cần buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như phục vụ công tác phòng chống tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo B tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về vai trò của bị cáo: Trong vụ án này, bị cáo B một mình thực hiện hành vi phạm tội, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm với toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của mình đã gây ra.

[6] Về mức án: Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, nên chấp nhận xử phạt bị cáo B mức án như Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, đề nghị tại phiên tòa là phù hợp và có căn cứ pháp luật.

[7] Bị cáo B là người sử dụng ma túy; việc tàng trữ ma túy là để sử dụng không nhằm mục địch vụ lợi; bản thân bị cáo nghề nghiệp, thu nhập không ổn định; không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp tư pháp: - 01 (Một) P bì đựng ma túy loại Heroine đã niêm phong. Xét thấy đây là vật cấm tàng trữ trái phép, nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của HOÀNG B, Công an thành phố T đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 000871 ngày 29/6/2022, hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng là đúng quy định của pháp luật, nên không xem xét giải quyết.

[10] Đối với người đàn ông theo B khai nhận tên là Phong, là người bán Heroine cho B tại khu vực bến xe khách thành phố T, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ điều tra xử lý là có căn cứ pháp luật.

[11] Đối với bà Phạm Thị T là người cho B mượn xe mô tô hai bánh biển số 22K8-4629, nhưng bà T không biết B sử dụng xe mô tô hai bánh để đi mua Heroine về sử dụng, nên không đề cập xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[12] Bị cáo B phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

1. Tun bố: Bị cáo HOÀNG B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt: Bị cáo HOÀNG B 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 18 tháng 5 năm 2022.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,042g (Không phẩy không bốn hai gam) loại Heroin (số còn lại sau khi giám định) được niêm P trong một P bì giấy còn nguyên vẹn, mặt trước ghi “tang vật vụ HOÀNG B, giám định ngày 18/5/2022”, mặt sau tại các mép dán của P bì niêm P có chữ ký của đương sự HOÀNG B cùng thành phần tham gia giám định và 05 (Năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

Tình trạng vật chứng, tài sản trên như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố T với Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, lập ngày 28/7/2022.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo HOÀNG B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo HOÀNG B được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về