Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 59/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đặng Thành N, sinh năm 1994 tại tỉnh Nam Định; Tên gọi khác: Không; Nơi thường trú: Tổ 9, phường TĐ, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề ngH: Tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Đặng Văn Ph đã chết; Con bà: Đỗ Thị H; Vợ: Đỗ Thu H; Con: Chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2021, hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Vũ H, sinh năm 1992 tại tỉnh Thái Nguyên; Tên gọi khác: Không; Nơi thường trú: Tổ 01, phường HVT, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Nguyễn Văn Th; Con bà: Vũ Thị Thúy Ng; Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/12/2021, hiện nay đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị Thuý Ng, sinh năm 1968; Nơi cư trú: Tổ 01, phường HVT, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên toà).

Người chứng kiến: Ông Vũ Văn A, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Tổ X, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 10 phút ngày 22/12/2021, tổ công tác Công an phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 08 của phường thì phát hiện 02 nam thanh niên điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20B2-457.29 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm ma túy, tổ công tác đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra và mời người chứng kiến. Hai nam thanh niên khai nhận tên là Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H.

Quá trình kiểm tra, N tự giác giao nộp từ túi quần sau bên trái đang mặc 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng (N khai nhận đó là ma túy tổng hợp N mua để sử dụng cùng với H). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N, H và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu đen, BKS 20B2-457.29, xe đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu xanh, đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, vỏ màu trắng, đã qua sử dụng.

Tiến hành cân toàn bộ số chất tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A1 có khối lượng 0,541 gam, lấy mẫu ký hiệu A2 gửi giám định, cân toàn bộ 01 viên nén màu hồng trong bì niêm phong ký hiệu A1 có khối lượng 0,110 gam, lấy mẫu ký hiệu A3 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 86/KL-KTHS ngày 31/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong phong bì kí hiệu A2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ là 0,541 gam. Chất bột màu trắng trong phong bì kí hiệu A3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng thu giữ là 0,110 gam.

Vật chứng của vụ án: 03 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: A2, A3, A4; 01 bì niêm phong ký hiệu N bên trong có 01 điện thoại di động của Đặng Thành N; 01 bì niêm phong ký hiệu H bên trong có 01 điện thoại di động của Nguyễn Vũ H. Hiện vật chứng trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen, gắn BKS 20B2-457.29, số khung RLHJA3922MY229701, số máy JA39E-2349836. Hiện chiếc xe mô tô trên đã được trả lại cho chủ sở hữu là bà Vũ Thị Thúy Nga tiếp tục quản lý, sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 72/CT-VKSTPTN ngày 18/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình tranh tụng tại phiên tòa, hai bị cáo khai: Khoảng 15 giờ 40 phút ngày 22/12/2021, N gọi điện thoại, nhắn tin qua Zalo bảo H đến đón N rồi đi mua ma túy cùng sử dụng thì H đồng ý. H điều khiển xe mô tô BKS 20B2- 457.29 đến đón N. N và H thỏa thuận mỗi người góp 100.000 đồng để mua ma túy, N bỏ tiền mua ma túy trước rồi H sẽ trả N sau. H chở N đến khu vực phía sau nhà nghỉ Hải Hà thuộc phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên để mua ma túy. Tại đây, N mua của 01 người đàn ông không quen biết 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa ma túy tổng hợp dạng tinh thể màu trắng và 01 viên hồng phiến với giá 200.000 đồng. Sau đó, N cất số ma túy vừa mua được trong túi quần phía sau bên trái đang mặc rồi H chở N đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác công an phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma tuý, điện thoại của hai bị cáo và xe mô tô của bị cáo H.

Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Đặng Thành N từ 13 đến 15 tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ H từ 13 đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo;

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với 02 điện thoại di động của hai bị cáo, tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy và vỏ bao gói mẫu còn lại sau giám định và buộc các bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Hai bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận. Tại lời nói lời sau cùng, các bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải, xác định việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội, không oan, xin được pháp luật khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các thủ tục, trình tự tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[2] Trên cơ sở đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ, kết luận giám định chất ma tuý, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Từ các chứng cứ đó Hội đồng xét xử thấy rằng có đủ cơ sở xác định:

Hồi 16 giờ 10 phút ngày 22/12/2021, tại khu vực tổ 8, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên, Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H đang có hành vi tàng trữ 0,651 gam ma tuý loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng Xem xét hành vi khách quan, động cơ, mục đích phạm tội, khối lượng chất ma túy tàng trữ trái phép, thì các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm: a....., b......

c, …methamphetamin ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố các bị cáo Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H về tội danh và điều luật nêu trên là đúng người đúng tội.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của hai bị cáo thấy rằng:

Hành vi của các bị cáo có tính chất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, làm mất trật tự trị an tại địa phương, góp phần làm gia tăng các tệ nạn liên quan đến ma túy.

Hai bị cáo có vai trò đồng phạm giản đơn. Bị cáo N là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu ma tuý trên người. Bị cáo H cùng thống nhất ý chí góp tiền và dùng phương tiện tích cực giúp sức cùng N trong việc mua ma tuý để cả hai cùng sử dụng.

Trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình vì vậy Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Đánh giá về nhân thân của các bị cáo thì thấy: Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H tuổi đời đều còn rất trẻ, chưa có nghề ngH ổn định. Bị cáo H chưa có vợ con. Nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội là do các bị cáo thiếu bản lĩnh, không chịu phấn đấu rèn luyện, ham chơi bời bị bạn bè rủ rê lôi kéo dẫn đến sử dụng ma tuý, một phần cũng do gia đình chưa quan tâm sâu sắc. Trước khi phạm tội hai bị cáo đều có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự. Ngoài ra bị cáo N trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự đã có thành tích tốt nhiều lần được tặng thưởng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến. Bị cáo H có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Thái đã có thành tích được tặng bằng khen trong quá trình công tác. Hội đồng xét xử đánh giá những yếu tố nhân thân tích cực nêu trên để đánh giá toàn diện khách quan khi lượng hình đối với các bị cáo.

[4] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề xuất áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp để giáo dục, răn đe các bị cáo nói riêng, góp phần ngăn ngừa tội phạm về ma túy nói chung, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với những trường hợp phạm tội lần đầu, tạo điều kiện cho các bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, các bị cáo không có nghề ngH, không có thu nhập ổn định, không có tài sản, sống phụ thuộc gia đình, phạm tội không vì mục đích vụ lợi. Do đó Hội đồng xét xử cân nhắc không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với hai bị cáo.

[5] Về vật chứng: Áp dụng quy định của Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng là ma tuý và vỏ bao mẫu còn lại sau giám định tại các bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A2, A3, A4. Cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước các điện thoại di động thu giữ của N và H được niêm phong trong các bì niêm phong đúng quy định ký hiệu N và ký hiệu H.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen gắn BKS 20G1-457.29 số khung RLHJA3922MY229701, số máy JA39E-2349836 là tài sản của bà Vũ Thị Thuý Ng. Kết quả điều tra cho thấy ngày 22/12/2021 khi cho bị cáo H mượn xe bà Nga không biết H sử dụng xe mô tô trên để đi mua ma tuý về sử dụng. Ngày 24/01/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên đã quyết định trả lại cho chủ sở hữu là bà Vũ Thị Thuý Ng quản lý sử dụng là đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận lại tài sản bà Nga không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

[6] Về án phí, quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này các bị cáo khai mua ma tuý của người đàn ông không rõ tên tuổi tại khu vực phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 326 và Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Đặng Thành N, Nguyễn Vũ H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Thành N 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2021. Quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ H 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2021. Quyết định tiếp tục tạm giam Bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A2 có ghi hoàn trả 0,420 gam mẫu A2 còn lại sau giám định và bỏ bao mẫu A2 vụ Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H phạm tội về ma tuý. Mặt sau có 02 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký Vũ Quang H và Trương Đăng T.

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A3 có ghi hoàn trả vỏ bao mẫu A3 vụ Đặng Thành N và Nguyễn Vũ H phạm tội về ma tuý, mặt sau có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Vũ Quang H, Trương Đăng T.

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu A4, có ghi lưu khi, mặt sau có 03 dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên và 07 chữ ký của Mai Tố U, Nguyễn Thị Thu N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Vũ H, Đặng Thành N, Vũ Văn A, Ma Đình T.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước:

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu N, bên trong có 01 điện thoại di động (đã qua sử dụng nhãn hiệu Iphone, vỏ màu trắng có số Imei 357344098864946, Imei 2: 357344098765754, số thuê bao 0345660996) 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu H bên trong có 01 điện thoại di động (đã qua sử dụng nhãn hiệu Samsung, vỏ màu xanh, số imei 352233/11/630440/4; Imei 352234/11/630440/2, số thuê bao 0919.147.145) (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 144 ngày 24/3/2022 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về