Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 86/2021/HS-ST NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 87/2021/TLST-HS, ngày 12 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS, ngày 17/10/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 19/4/1997 tại tỉnh Tuyên Quang; trú tại: Tổ dân phố Trầm Ân, thị trấn Y, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; chỗ ở hiện nay: thôn 8, phường Đ, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; con ông Nguyễn Xuân T (đã chết), con bà Trần Thị T, sinh năm 1975; vợ: Ma Thị D, sinh năm 1996; con: có 01 con, sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 30/6/2021, Nguyễn Thành Đ bắt xe taxi đi từ chỗ ở của Đ đến khu vực bến xe khách Tuyên Quang để tìm mua ma túy đá về sử dụng cho nhu cầu của bản thân. Tại đây Đ gặp một người đàn ông khoảng 20 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) hỏi mua được 01 túi linon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng với giá 200.000 đồng, Đ xác định là ma túy đá. Sau khi mua được ma tuý, Đ cầm gói ma túy ở lòng bàn tay phải rồi thuê xe ô tô taxi đến khu vực cổng trường Đại học Tân Trào tìm nơi vắng người để sử dụng ma túy. Khi đang đi bộ vào đường bê tông thuộc thôn 16, xã T, huyện S thì gặp tổ công tác Công an xã T đang làm nhiệm vụ, yêu cầu kiểm tra đối với Đ. Quá trình kiểm tra Đ tự nguyện giao nộp 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, Đ khai nhận là ma túy đá mua về để sử dụng. Tổ công tác Công an xã T đưa Đ về Ủy ban nhân dân xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Nguyễn Thành Đ, kết quả (+) dương tính (có chất ma túy trong cơ thể Đ), Đ khai nhận đã sử dụng ma túy ngày 29/6/2021 do mua của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) tại khu vực bến xe khách Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

Tại Kết luận giám định số 628 ngày 04/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,332g (không phẩy ba ba hai gam).

Trên cơ sở kết luận điều tra, ngày 11/10/2021 Viện Kiểm sát nhân dân huyện S đã hành cáo trạng số 87/CT- VKSYS truy tố Nguyễn Thành Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 

Tại phiên tòa, sau khi kết thúc phần xét hỏi công khai, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện S phát biểu lời luận tội, giữ nguyên nội dung cáo trạng, truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù; Thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/6/2021.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy số ma tuý đã thu giữ của bị cáo.

Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên, nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 ngày 30/6/2021, tại thôn 16, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Thành Đ đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,332g (không phẩy ba ba hai gam) chất ma tuý, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Như vậy hành vi của bị cáo Nguyễn Thành Đ đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Sơn truy tố đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[2] Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, đồng thời còn là nguyên nhân có thể phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.

3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, HĐXX nhận định:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] Về hướng xử lý: bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên trọng lượng chất ma tuý bị cáo tang trữ gấp hơn 3 lần định lượng xác định cấu thành tội phạm. Do đó cần xử phạt bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Xét cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng có giá trị. Do đó HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: 0,332g (không phẩy ba ba hai gam) chất ma tuý, loại Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo là chất ma túy cấm lưu hành, vì vậy cần tịch thu tiêu huỷ.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, ngày 05/7/2021 Trưởng Công an huyện S đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 118/QĐ- XPHC, hình thức phạt: Cảnh cáo nên HĐXX không đề cập xử lý. Đối với hai người đàn ông bán ma túy cho bị cáo do không xác định được nên không có căn cứ để điều tra làm rõ trong vụ án.

[8] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[9] Về quyền kháng cáo: bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Về tội danh: Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thành Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Về hình phạt: Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Đ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam (ngày 30/6/2021).

* Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì niêm phong còn nguyên vẹn các mép dán kín, bên ngoài mặt trước phong bì niêm phong ghi chữ “ Tang vật vụ: Nguyễn Thành Đ giám định ngày 30/6/2021” mặt sau trên các mép dán có chữ ký giáp lai của Nguyễn Thành Đ, thành phần tham gia niêm phong và 05 (năm) hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/10/2021 giữa Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).

* Về án phí: Căn cứ vào điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên: Bị cáo Nguyễn Thành Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 29/10/2021)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2021/HS-ST

Số hiệu:86/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về