Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 85/2023/HS-ST NGÀY 31/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 10 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 79/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Vũ Viết Á, sinh ngày 25/11/1994; nơi cư trú: Xóm A, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Viết M và bà Vũ Thị L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 02/02/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 08/02/2023.

Nhân thân: Ngày 10/7/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong ngày 02/9/2020.

Bị tạm giữ từ ngày 13/6/2023 đến ngày 22/6/2023 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

2. Trần Hữu H, sinh ngày 28/10/1995; nơi cư trú: Thôn B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu H1 và bà Phan Thị N; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 13/6/2023 đến ngày 22/6/2023 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

- Người làm chứng: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1959; “vắng mặt”;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Viết Á và Trần Hữu H là bạn của nhau và cùng là đối tượng nghiện ma tuý. Sáng ngày 13/6/2023, Á sử dụng tài khoản zalo “Ánh S” nhắn tin đến tài khoản zalo “Trần Hiệp” của Trần Hữu H rủ góp tiền mua ma tuý về cùng sử dụng. Hiệp đồng ý. Khoảng 08 giờ cùng ngày, H và Á gặp nhau tại chợ xã X, H đưa cho Á 100.000 đồng. Á cầm tiền rồi một mình đi bộ đến khu vực tổ B, thị trấn X tìm mua ma tuý. Tại đây, Á gặp một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ, qua dò hỏi biết người này có ma túy bán. Á hỏi mua 200.000 đồng H2, người phụ nữ cầm tiền và đưa lại cho Á 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. Ánh xác định là H2, cầm ở lòng bàn tay trái rồi quay lại tìm H. Khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày, khi Á và H đang đi bộ trên đường thuộc khu vực xóm B xã X thì bị Tổ công tác Công an huyện X làm nhiệm vụ phát hiện có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu kiểm tra. Ánh tự giác nộp 01 gói nhỏ vừa mua và khai nhận là Heroine. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, đưa Á và H về UBND xã X lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong gói nhỏ Á giao nộp ký hiệu là M.

Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Vũ Viết Á và Trần Hữu H, nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Kết quả xét nghiệm định tính Morphin đối với Vũ Viết Á và Trần Hữu H ngày 13/6/2023 của Trung tâm y tế huyện X xác định: Vũ Viết Á và Trần Hữu H dương tính với M1.

Tại bản kết luận giám định số 921/KL-KTHS ngày 16/6/2023 của Phòng K Công an tỉnh N đã kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong phong bì thư niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy Heroine. Khối lượng mẫu M là: 0,266 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Vũ Viết Á và Trần Hữu H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

Cáo trạng số 77/CT-VKS ngày 06/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường: Truy tố các bị cáo Vũ Viết Á và Trần Hữu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu đánh giá về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh và hình phạt:

- Tuyên bố các bị cáo Vũ Viết Á và Trần Hữu H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Viết Á từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù; xử phạt bị cáo Trần Hữu H từ 01 năm 9 tháng đến 02 năm tù;

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, cho tiêu hủy số ma túy trong 01 gói nhỏ đã thu giữ; tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 chiếc điện thoại di động là phương tiện mà các bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Các bị cáo không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng các bị cáo thừa nhận hành vi vi phạm pháp luật của bản thân, hứa sửa chữa lỗi lầm và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều tuân thủ đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều không có khiếu nại gì. Như vậy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số ma túy thu giừ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 13/6/2023, tại khu vực xóm B, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định, Vũ Viết Á và Trần Hữu H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0.266 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo Vũ Viết Á và Trần Hữu H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, như Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn mua bán, sử dụng trái phép chất ma tuý, một hiểm họa lớn cho toàn xã hội, là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm như: Trộm cắp tài sản, cướp tài sản,... làm tan vỡ hạnh phúc bao gia đình. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, thấu hiểu được tác hại của ma túy nhưng vân tàng trữ, tổ chức, chứa chấp cho các đối tượng sử dụng trái phép chất ma tuý. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo theo quy định của pháp luật hình sự để răn đe và phòng ngừa.

[4] Về vị trí, vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn theo quy định tại Điều 17 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo cùng nhau góp tiền mỗi người 100.000đ để mua ma túy về cùng sử dụng nên có vai trò ngang nhau trong vụ án.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, Vì vậy, Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị các cáo ra khỏi xã hội một thời gian là áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ hành vi cũng như theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của các bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[8] Về xử lý vật chứng thu giữ: Số H đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu, cho tiêu hủy. Đối với 02 chiếc điện thoại di động, gồm: 01 điện thoại Iphone 12 Promax và 01 điện thoại Samsung đã cũ là phương tiện mà các bị cáo dùng vào việc phạm tội xét tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[9] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Á, Á khai không biết tên tuổi, địa chỉ ngoài ra không còn nguồn chứng cứ, tài liệu nào khác nên không có căn cứ để xử lý.

[10] Án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố các bị cáo Vũ Viết Á và Trần Hữu H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Viết Á 02 (hai) năm 3 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2023.

- Xử phạt bị cáo Trần Hữu H 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy số Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 921/KL-KTHS của Phòng K Công an tỉnh N.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 chiếc điện thoại di động, gồm: 01 điện thoại Iphone 12 Promax và 01 điện thoại Samsung đã cũ.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 03/CCTHA ngày 13/10/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện X và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc các bị cáo Vũ Viết Á và Trần Hữu H mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Vũ Viết Á và Trần Hữu H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2023/HS-ST

Số hiệu:85/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về