Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 55/2022/HSST, ngày 24/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2022/QĐXXST-HS, ngày 02/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần K; giới tính: Nam; Sinh năm 1996 tại tỉnh Bình Thuận Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn Vĩnh Hanh, xã P, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; Cha: Trần Đức L, sinh năm 1970 và Mẹ: Dương Thị Ngọc L, sinh năm 1973; Anh, chị, em ruột: có 02 người, lớn nhất sinh năm 1993; nhỏ nhất sinh năm 2011; Vợ, con: chưa có;

Tiền án: 02 tiền án.

Ngày 04.3.2022 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xử phạt 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ngày 04.3.2022 bị Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: 01 tiền sự. Ngày 17.11.2020 bị Chủ tịch UBND xã P áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt ngày 27.4.2022 hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phong và có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 ngày 25.4.2022 Trần K nhờ một người quen biết ngoài xã hội (không rõ lai lịch) tại nhà máy xây lúa Long Thảo thuộc xã P mua giúp 500.000 đồng ma túy.

Đến 16 giờ 20 phút ngày 27.4.2022 cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Tuy Phong tiếp nhận Trần K đến chấp hành án tù theo quyết định thi hành án tổng hợp hình phạt số 01/2022/QĐ – CA ngày 06.4.2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

Sau khi tiếp nhận đã tiến hành đưa K đến nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phong để kiểm tra người và đồ dùng cá nhân trước khi đưa vào buồng giam, giữ. Qua kiểm tra phát hiện trên người của K có tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ phía trong lưng quần phía trước K đang mặc có 01 gói nylon không màu được hàn kín 02 đầu, có kích thước 02x04cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. K khai nhận tinh thể màu trắng là ma túy đá của K cất giấu với mục đích mang vào buồng giam, giữ để sử dụng khi có nhu cầu.

Tại bản kết luận giám định số 464/KLGĐ-PC09 ngày 30.4.2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,3356 gam, là Methamphetamine.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số:

64/QĐ/KSĐT/VKS/HS, ngày 24.5.2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong.

Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần K từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án số 31/2022/HSST và số 32/2022/HSST ngày 04.3.2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong. Buộc bị cáo K phải chấp hành chung cho cả 03 bản án từ 08 năm 03 tháng đến 08 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27.4.2022.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon không màu đã được cắt lấy mẫu và 0,2437gam mẫu M hòan lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 464 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo K xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra – Công an huyện Tuy Phong, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: vào khoảng 16 giờ 20 phút ngày 27.4.2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tuy Phong thuộc khu phố 05, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong, Trần K có tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nay tiếp tục tàng trữ 01 gói ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,3356gam nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước, là một trong những nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội và làm lây truyền các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho tính mạng và sức khỏe cộng đồng, gây mất trật tự trị an tại địa phương.

Bị cáo có 02 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội thược trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cũng cần xem xét nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phong tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận toàn bộ.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 gói nylon không màu có kích thước đã được cắt lấy mẫu và 0,2437gam mẫu M còn lại sau giám định, đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Riêng người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Trần K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần K 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt 06 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bán án số 31/2022/HSST và 09 (Chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của bản án số 32/2022/HSST ngày 04.3.2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong. Buộc bị cáo K phải chấp hành chung cho 03 bản án là 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27.4.2022.

[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon không màu đã được cắt lấy mẫu và 0,2437gam mẫu M còn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 464 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24.5.2022 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Tuy Phong và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phong).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về