Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 84/2021/HS-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2021/HSST – QĐ ngày 16/12/2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn T, sinh ngày 11 tháng 02 năm 1990, tại xã C, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn H, xã C, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Ngọc H và bà Quách Thị H; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/10/2021 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 03 giờ 00 ngày 01/10/2021, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an huyện Thạch Thành phối hợp với Công an xã Thành Công làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn xã Thành Công. Khi đến khu vực trường Trung học cơ sở C, thuộc thôn B, xã C, tổ Công tác phát hiện tại phòng bảo vệ của trường Trung học cơ sở C có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội về ma túy nên đã tiên hành kiểm tra. Qua kiểm tra tại phòng bảo vệ có 02 (hai) người đàn ông lần lượt là Bùi Văn T và Bùi Văn Đ là nhân viên bảo vệ trường trung học cơ sở C. Khi thấy tổ công tác Bùi Văn T đang ngồi ở khu vực gần cửa ra vào của phòng bảo vệ thả từ trong lòng bàn tay phải ra 01 (một) gói nhỏ, có kích thước khoảng 01x02cm, được gói bên ngoài bằng mảnh giấy màu trắng, dạng giấy viết học sinh, kiểm tra bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là chất ma túy). Lúc này Bùi Văn Đ đang nằm trên giường ngủ trong phòng bảo vệ. Làm việc với lực lượng ông an, tại chỗ Bùi Văn T khai nhận gói nhỏ màu trắng mà T thả từ trong tay bị tổ công tác phát hiện là gói ma túy của T đang định sử dụng thì bị tổ công tác phát hiện, thu giữ. Sau đó tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với Bùi Văn T và niêm phong tang vật theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 3068/PC09 ngày 04/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 01 (một) gói giấy (dạng giấy viết học sinh) thu giữ của Bùi Văn T, có tổng khối lượng là 0,210g (không phẩy hai một không gam) là ma túy, loại: Heroine.

Bùi Văn T khai nhận: Bản thân là người nghiện ma tuý, khoảng 02 giờ 30 phút ngày 01/10/2021, T đi chơi tại thôn B, xã C thì điện thoại hết pin nên đã vào phòng bảo vệ Trường THCS Thành Công để xin ông Bùi Văn Đ là nhân viên bảo vệ của trường sạc nhờ điện thoại. Sau đó, khi ông Đ đang ngủ thì có nam thanh niên tên L người quen biết của T (thấy mọi người hay gọi tên L, T không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) cũng vào phòng bảo vệ chơi. Trong quá trình này T hỏi xin ma túy và được L cho 01 (một) gói heroine được gói ngoài bằng mảnh giấy trắng (dạng giấy viết học sinh) có kích thước khoảng 01x02cm. Sau đó L ra về, đi đâu làm gì T không biết. Khi T đang lấy gói ma túy của L cho ra sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện và thu giữ như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKSTT ngày 30/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Bùi Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (Ngày 01/10/2021).

Xác minh về nhân thân, điều kiện tài sản của Bùi Văn T xác định: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập cụ thể, không có tài sản nên đại diện VKS không đề nghị áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,182 gam chất bột màu trắng đựng trong một phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đăng, Phạm Thanh Hải và có đóng các hình dấu giáp lai của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) - Công an tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Phần tranh tụng tại phiên toà: Bị cáo Bùi Văn T thành khẩn nhận tội, không có ý kiến tranh luận với kiểm sát viên; Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp để có điều kiện học tập, cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạch Thành; của điều tra viên; của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thành và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn T thành khẩn nhận tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 01/10/2021, Bùi Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,210 gam ma tuý loại heroin. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạch Thành truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về tính chất vụ án: Tính chất vụ án là nghiêm trọng do Bùi Văn T thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế - xã hội, huỷ hoại trực tiếp sức khoẻ chính bản thân bị cáo và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Để pháp luật được tôn trọng, trật tự an toàn xã hội được duy trì; để giáo dục người phạm tội, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của Bộ luật hình sự và cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân tốt.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người nghiện ma tuý, sống dựa vào bố mẹ, không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập đáng kể nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo là phù hợp.

[6]. Về người đàn ông tên L đã đưa ma túy cho T. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm đối tượng L mà T khai báo nhưng do T không biết rõ đầy đủ tên tuổi địa chỉ nên không xác định được đối tượng này. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[7]. Về vật chứng: Toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,182 gam đựng trong 01 phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá phát hành là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn T 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam là ngày 01/10/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,182 gam chất bột màu trắng dạng cục vụn. Tất cả được đựng trong một phong do phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Phạm Thanh Hải và các hình dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa (Các vật chứng được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02/12/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạch Thành và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá).

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Điều 6, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Bị cáo Bùi Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 7a và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2021/HS-ST

Số hiệu:84/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về