Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 84/2021/HS-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai S, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Lường Văn O. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh năm 1987. Nơi sinh: huyện Mai S, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản L, xã C, L, huyện Mai S, tỉnh Sơn La. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Chức vụ ĐTĐP: Không. Con ông: Lường Văn N, sinh năm 1966 và Lò Thị Th, sinh năm 1968. Bị cáo có vợ là Lò Thị Tr, sinh năm 1987. Bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2006 và nhỏ sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/5/2021, cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Lò Thị Tr, sinh năm 1987. Địa chỉ: Bản L, xã  Chiềng L, huyện Mai S, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 ngày 14/5/2021, Lường Văn O đem theo 300.000VNĐ điều khiển xe mô tô hiệu HONDA WIN 100, biển kiểm soát: 26 B1- 661.59 đi từ nhà tại bản Lù, xã  Chiềng L huyện Mai S, mục đích để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến khu vực bản Nong Mòn, xã Cò Nòi, huyện Mai S, O gặp một người phụ nữ không biết tên, địa chỉ, O đặt vấn đề mua 200.000 VNĐ Heroine và 100.000 VNĐ hồng phiến, người phụ nữ nhận tiền bảo O chờ để đi lấy ma túy. Khoảng 30 phút sau, người phụ nữ quay lại đưa cho O 01 gói ni lon màu đen nói bên trong có Heroine và hồng phiến, O giấu gói ma túy vào cạp quần đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi qua khu vực tiểu khu Quyết Thắng, xã Cò Nòi huyện Mai S, tỉnh Sơn La thì bị Tổ công tác công an xã Cò Nòi, huyện Mai S, phát hiện thu giữ vật chứng gồm: 01 gói được gói bằng ni lon màu đen, lớp tiếp theo là ni lon màu trắng, bên trong có chứa 02 gói đều được gói bằng ni lon màu trắng trong đó có 01 gói bên trong có chứa 03 viên nén màu hồng, mặt mỗi viên đều có ký hiệu “WY” nghi ma túy tổng hợp (Hồng phiến); 01 gói bên trong chưa chất bột màu trắng nghi là Heroine; 02 điện thoại di động trong đó: 01 điện thoạiại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, điện thoại có bàn phím bấm kèm theo sim, máy đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung, vỏ màu vàng, màn hình cảm ứng, kèm theo sim, máy đã qua sử dụng; 01 xe máy, mang nhãn hiệu Honda – Win 100, sơn màu đen, mang biển kiểm soát 26B1-66159, số khung MH1HAB00TTK025227, số máy T0252552, xe đã qua sử dụng.

Ngày 14/5/2021, Cơ quan điều tra công an huyện Mai S phối hợp với phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở liêm phong, cân tịnh vật chứng thu giữ của Lừơng Văn O, lấy mẫu trưng cầu giám định, kết quả: 03 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,31 gam, lấy toàn bộ làm mẫu ký hiệu M1.

Gói thứ hai: Khối lượng chất bột mầu trắng co khối lượng là 0,39 gam, lấy toàn bộ mẫu ký hiệu là M2 trưng cầu giám định là 0,15 gam, lấy toàn bộ mẫu làm mẫu ký hiệu M trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số1001/KLMT ngày 18/5/2021 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu M1 là ma túy; LO Methamphetamine khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,31 gam.

Mẫu giử giám định M2 là ma túy; LO Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,39 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,31 gam: LO Methamphetamine và 0,39 gam lO Heroine” Tại phiên toà, bị cáo Lường Văn O đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Bản cáo trạng số 60/CT-VKSMS ngày 29/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai S đã truy tố bị cáo Lường Văn O về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Sau khi kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Lường Văn O phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lường Văn O từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu đen, mảnh nilon màu trắng, 01 phong bì thư bên trong chứa 01 phong bì gửi mẫu giám định và vật chứng không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng M1 = 0,24 gam M2 = 0,22gam.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động SamSung, màu vàng kèm theo 01 sim điện thoại.

Trả lại cho chị Lò Thị Tr 01 xe mô tô hiệu HONDA WIN 100, màu đen, biển kiểm 26B1-66159, số khung MH1HAB00TTK025227, số máy T0252552. Xe đã qua sử dụng cũ và 01 diện thoại di động hiệu ITEL, màu đen kèm theo 01 sim điện thoại .

- Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điểu 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với nội dung luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Lò Thị Tr trình bày: 01 xe máy HONDA WIN 100, màu đen, biển kiểm 26B1-66159 là của gia đình và 01 điện thoại Itets vỏ màu đen điện thoại có bàn phím bấn kèm theo 01 sim điện thoại có số thuê bao 0961895820 chiếc điện thoạiại này là của chị do bị cáo mượn vì điện thoại của bị cáo hết tiền. Về chiếc xe máy là của gia đình chị tích góp mua đã lâu và mua lại xe cũ. Việc bị cáo sử dụng chiếc xe đi mua ma túy chị hoàn toàn không biết vì vậy chị đề nghị được xin lại chiếc xe và chiếc điện thoại trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mai S, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai S, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo Lường Văn O đã khai nhận: Do bị cáo nghiện chất ma túy nên ngày 14/5/2021 bị cáo đã mua 0,31 gam Methmphetamine và 0,39 gam Heroine mục đích để sử dụng và đã bị Tổ công tác Công an xã Cò Nòi, huyện Mai S phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 10 phút ngày 14/5/2021; biên bản mở niêm phong, cân tịnh, trích rút mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng; phù hợp với kết luận giám định số 1001/KLMT ngày 18/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La; phù hợp với các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị can và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua tranh luận tại phiên tòa không có gì mâu thuẫn và không phát sinh tình tiết, chứng cứ mới.

Như vậy, với việc mua 0,31 gam Methamphetamine và 0,39 gam Heroine, tính tổng khối lượng ma túy theo quy định là 7,0gam, mục đích để sử dụng cho bản thân đã có đầy đủ cơ sở kết luận bị cáo Lường Văn O đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Viện kiểm sát truy tố và Tòa án xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm Tr của tội phạm: Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, nhận thức được việc mua, tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông buôn bán ma túy. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, vì lẽ đó khi lượng hình cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy: Bị cáo không có tình tiết nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra tại phiên tòa bị cáo và gia đình bị cáo còn cung cấp chứng cứ hiện bị cáo đang bị mắc bệnh hiểm nghèo HIV đang phải uống thuốc. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự sẽ được hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

Từ những nhận định trên, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định, bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, hiện đang sống phụ thuộc gia đình, bị cáo bị bệnh nặng, bản thân không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sử đổi bổ sung năm 2017, điểm a, c khoản 2 điểm 1 khoản 3 Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 thì xác định như sau:

Đối với 01 phong bì thư bên trong chứa vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, các mảnh nilon màu đen, mảnh nilon màu trắng cùng vật chứng còn lại 01 phong bì thư niêm phong chứa 0,24 gam Methamphetamine và 0,22 gam Heroine là chất nhà nước cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu vàng kèm theo 01 sim điện thoại.

Đối với 01 xe máy HONDA WIN 100, màu đen, biển kiểm 26B1- 66159 là của gia đình bị cáo, 01 điện thoại Itets vỏ màu đen lO có bàn phím, kèm theo 01 sim là của chị Lò Thị Tr vợ bị cáo cho mượn vì điện thoại của bị cáo hết tiền. Tại phiên tòa chị Tr đề nghị xin lại những tài sản này, xét việc yêu cầu trả lại tài sản là đúng quy định nên cần chấp nhận.

[7] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người phụ nữ không biết tên, địa chỉ tại bản Nong Mòn, xã Cò Nòi, huyện Mai S, tỉnh Sơn La, do việc mua bán không có ai chứng kiến, ngoài lời khai của bị cáo ra, không có căn cứ khác để điều tra mở rộng vụ án. Cần chấp nhận.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điểu 23 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Tuyên bố bị cáo Lường văn O phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lường Văn O 16 (mười sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 14/5/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu, mảnh nilon màu đen, mảnh nilon màu trắng, 01 phong bì thư bên trong chứa 01 phong bì gửi mẫu giám định và vật chứng không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng M1 = 0,24 gam M2 = 0,22gam.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu vàng kèm theo 01 sim điện thoại.

Trả lại cho chị Lò Thị Tr 01 xe mô tô hiệu HONDA WIN 100, màu đen, biển kiểm 26B1-66159, số khung MH1HAB00TTK025227, số máy T0252552, xe đã qua sử dụng cũ và 01 diện thoại di động hiệu ITEL, màu đen kèm theo 01 sim điện thoại .

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 86/BB-CCTHADS ngày ngày 03 tháng 8 năm 2021).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điểu 23 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000VNĐ.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 84/2021/HS-ST

Số hiệu:84/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về