Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 81/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 81/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại hội trường TAND huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2022/TLST-HS, ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Ngọc H; Sinh ngày: 12/9/1988; Tên gọi khác: không; Nơi sinh: Huyện Đ, tỉnh N; Nơi cư trú: Xóm 04, xã T, huyện Đ, tỉnh N; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Ngọc Th và bà Trần Thị M; Vợ: Đào Thị L; con: Có 03 con; Lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo Trần Ngọc H bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/6/2022 cho đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ, ngày 07/6/2022 do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên bị cáo Trần Ngọc H đã sử dụng điện thoại của mình gọi điện cho một đối tượng tên Linh không quen biết và nói “Có đồ không để cho anh ít về chơi” ý hỏi có ma túy không bán cho bị cáo một ít để về sử dụng. Nghe bị cáo hỏi như vậy thì đối tượng tên Linh này hiểu ý nên nói với bị cáo là “Có, đi đến dốc Mỹ Thành phía bên phải có viên gạch ở lề đường, em để sẵn đó rồi xuống để tiền ở đó mà lấy” và hai bên thống nhất bị cáo sẽ mua 1.000.000đ (Một triệu đồng) tiền ma túy đá. Sau khi điện thoại thống nhất xong, bị cáo điều khiển xe mô tô đi theo Quốc lộ 7A đến khu vực dốc thuộc xã Mỹ Thành, huyện Yên Thành và quan sát thấy bên đường bên phải có một viên gạch như Linh chỉ dẫn, nên bị cáo xuống xe đi lại gân viên gạch thì thấy có một gói ni lông trong suốt để ở đó và biết đây là gói ma túy, nên bị cáo đã cầm lên cất dấu, đồng thời lấy 1.000.000 đồng để vào vị trí gói ma túy để trả cho Linh. Sau khi có ma túy bị cáo điều khiển xe mô tô đi về hướng vùng núi xã Bài Sơn, Đô Lương để sử dụng. Tuy nhiên khi bị cáo đi đến cầu Sông Đào thuộc xóm Yên Sơn, xã Hòa Sơn, huyện Đô Lương thì bị Tổ tuần tra Công An huyện Đô Lương phát hiện bắt quả tang cùng với tang vật.

Vật chứng thu giữ: 01(một) gói nilong trong suốt, bên trong chứa đựng chất bột màu trắng (nghi ma túy); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có số sim 0349 857 X; 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu đen BKS 74 B1 - X Tại bản kết luận giám định số 833/KTHS(Đ2-MT) ngày 13/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Ngọc H gửi tới giám định là ma túy Methamphetamine và có khối lượng 0,940 g (Không phẩy chín trăm bốn mươi gam). Mẫu cần giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tại bản cáo trạng số 82/CT- VKS- ĐL ngày 30/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương đã truy tố bị cáo Trần Ngọc H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Đô Lương giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như bản cáo trạng số 82/CT- VKS- ĐL ngày 30/8/2022 và đề nghị hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Trần Ngọc H từ 15 đến 18 tháng tù về tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy”. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm c, khoản 2 Điều 106 BLTTHS 2015, Điều 47 BLHS 2015 tịch thu tiêu huỷ vật chứng còn lại gồm: 01 phong bì thư màu trắng kích thước (17 x 23cm) bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong ban đầu và vỏ nilon được niêm phong theo quy định thu giữ của Trần Ngọc H.

+ Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có số sim 0349 857 X.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu đen BKS 74 B1 - X đã được trả lại cho chủ sở hữu nên không xét.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và không có ý kiến tranh luận mà đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định của cơ quan CSĐT Công an huyện Đô Lương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Hành vi của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, vật chứng đã được thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, có đủ cơ sở để khẳng định: Vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 07 tháng 6 năm 2022 tại khu vực cầu Sông Đào, thuộc xóm Yên Sơn, xã Hòa Sơn, huyện Đô Lương, tổ công tác Công An huyện Đô Lương đã phát hiện và bắt quả tang đối tượng Trần Ngọc H, khi đối tượng này đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,940g (Không phẩy chín trăm bốn mươi gam) ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng.

Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đầy đủ nhận thức và điều khiển hành vi của mình, với hành vi tàng trữ 0,940g ma tuý Methamphetamine đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 Điều 249 BLHS 2015. Cho nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

- Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý và gây mất trật tự, an ninh tại đia phương. Như chúng ta đã biết chất ma tuý không những huỷ hoại sức khỏe của bản thân mà, làm xói mòn các giá trị văn hoá gia đình, đạo đức xã hội và là nguồn gốc, nguyên nhân, tiềm tàng phát sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội, bị cáo có đủ nhận thức biết được tác hại của chất ma tuý , mặc dù đã được tuyên truyền phổ biến nhưng vẫn bất chấp thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần lên một mức án nghiêm và phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục cải tạo bị cáo và công phòng ngừa tội phạm trên địa bàn - Về tình tiết tăng nặng: Tại thời điểm phạm tội Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ được quy định điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền nhưng xét thấy bị cáo không có tài sản gì lớn, là đối tượng nghiện ma tuý hoàn cảnh khó khăn, nghề nghiệp thu nhập không ổn định vì vậy miễn hình phạt tiền bổ sung cho bị cáo.

[4] Đối với hành vi của người bán ma tuý cho bị cáo Trần Ngọc H: Theo lời khai bị cáo Trần Ngọc H có được số ma tuý là do mua của người tên Linh mà có nhưng bị cáo không họ tên và địa chỉ ở đâu, sơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Đô Lương chưa có đủ cơ sở để xác định được người đã bán ma tuý(Methamphetamine) cho bị cáo Trần Ngọc H , do vậy khi nào xác minh rõ sẽ xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[5].Về vật chứng: -Vật chứng thu giữ còn lại gồm: 01 phong bì thư màu trắng kích thước (17 x 23cm) bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong ban đầu và vỏ nilon được niêm phong theo quy định thu giữ của Trần Ngọc H. Xét thấy vật chứng không có giá trị sử dụng nên cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự tịch thu và tiêu huỷ.

+ Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có số sim 0349 857 X.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội, buộc bị cáo Trần Ngọc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Về các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương tại phiên toà và việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc H 16 ( mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo ngày 07/6/2022.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu huỷ vật chứng còn lại gồm: Vật chứng còn lại gồm: 01 phong bì thư màu trắng kích thước (17 x 23cm) bên trong đựng vỏ phong bì niêm phong ban đầu và vỏ nilon được niêm phong theo quy định thu giữ của Trần Ngọc H.

+ Tịch thu và sung quỹ nhà nước 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen có số sim 0349 857 X.

(Chi tiết vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đô Lương ngày 31/8/2022).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Trần Ngọc H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tỉnh Nghệ An. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 81/2022/HS-ST

Số hiệu:81/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về