Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/5/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu; Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2022/TLST - HS ngày 27/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 157/2022/QĐXXST - HS ngày 12 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vương Viết P; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày: 01/11/1985 tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm Bắc X, xã Diễn X, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Vương Viết Th, sinh năm 1963. Họ tên mẹ: Ngô Thị H1, sinh năm 1966. Anh, chị, em ruột: có 04 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Chu Thị H2 (đã ly hôn). Con: có 2 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày: 10/7/1976 tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm Bắc X, xã Diễn X, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 7/12. Họ tên cha: không có. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H3 (đã chết). Anh, chị, em ruột: có 2 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ: Tăng Thị C, sinh năm 1975; Con: có 2 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Ngọc A; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày: 30/4/1974 tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: xóm Bắc X, xã Diễn X, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 10/12. Họ tên cha: Nguyễn Ngọc Đ - đã chết. Họ tên mẹ: Phạm Thị S - sinh năm 1940. Anh, chị, em ruột: có 05 người, bị cáo là con thứ năm trong gia đình. Vợ: Nguyễn Thị N (đã ly hôn). Con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân:

- Năm 1998 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 6 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản công dân” - Năm 2013 bị Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai – Tp. Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 24/2/2016.

- Năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu xử phạt 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt vào ngày 29/7/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/8/2021 đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 27/8/2021, Vương Viết P đến nhà Đ và rủ Nguyễn Văn Đ góp tiền mua ma túy về sử dụng, Đ đồng ý rồi Đ và P góp mỗi người 150.000 đồng để đi mua ma túy. Sau khi gom được tiền P gọi điện thoại cho Nguyễn Ngọc A hỏi “Anh có chỗ nào mua được ma túy không ?”, A trả lời “Để anh điện thoại xem”, đồng thời hỏi lại P “Em mua nhiều không”, P trả lời “Em mua ba trăm nghìn đồng”. Sau đó A gọi điện cho một người đàn ông tên L trú tại xã Diễn Ngọc, Diễn Châu hỏi “Có ma túy nữa không bán cho ba trăm nghìn đồng”, L đồng ý và hẹn A đi đến cây xăng dầu ở gần cầu ba ra thuộc xã Diễn Ngọc đi lấy ma túy và giao tiền, A đồng ý và nói lại với L tí nữa thằng em nó xuống nó lấy. Sau đó, A gọi điện cho P nói “Giờ em đi xuống cây xăng dầu xã Diễn Ngọc gần cầu ba ra chờ đó có người đưa đến cho em”, P nghe theo lời A rồi đi xuống điểm hẹn, một lúc sau P thấy một người đàn ông đi xe máy đến hỏi “Có phải người của A không”, P trả lời “Dạ” thì người đó hỏi “Tiền đâu”, P lấy ra 300.000 đồng đưa cho người đó, người đó cầm tiền rồi đưa cho P 01 (Một) gói ni lon màu đen bên trong chứa ma túy. P cầm lấy gói ma túy đó đi về nhà Đ, khi P đến gần nhà Đ thì A gọi điện hỏi “Em về đến đâu rồi”, P trả lời “Em về gần đến nơi rồi anh sang nhà anh Đ đi”. Ánh hiểu ý P rủ sang nhà Đ sử dụng ma túy. P, A đi vào phòng ngủ thức Đ dậy rồi cả ba ngồi xuống nền nhà trong phòng ngủ của Đ. Lúc này P lấy ra 01 (Môt) gói ni lon màu đen bên trong chứa 05 (Năm) viên ma túy để xuống nền nhà rồi lấy 01 (Một) viên ma túy ra để cùng sử dụng. Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, khi cả ba đang sử dụng ma túy thì Công an xã Diễn Xuân kiểm tra, P liền gói 04 viên ma túy chưa sử dụng và dấu dưới đệm trên giường của Đ, Công an xã Diễn Xuân đã phát hiện thu giữ ở trên mảnh giấy bạc để dưới nền nhà một phần viên ma túy và thu giữ ở dưới đệm trên giường của Đ 01 (Một) gói nilon màu đen bên trong chứa 04 (Bốn) viên ma túy. Lực lượng Công an niêm phong toàn bộ số vật chứng đó rồi tiến hành lập biên bản quả tang, chuyển hồ sơ, vật chứng và Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P, Nguyễn Ngọc A cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Diễn Châu điều tra xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 27/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Tại Bản kết luận giám định số 1258/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 02/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: 04 (Bốn) viên nén màu hồng có đặc điểm giống nhau và một phần viên nén màu hồng thu giữ của Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P và Nguyễn Ngọc A có tổng khối lượng 0,4 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P và Nguyễn Ngọc A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ.

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKS-DC ngày 26/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Ngọc A, Vương Viết P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ và Vương Viết P mỗi bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A từ 13 đến 16 tháng tù.

Vật chứng vụ án:

+ Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong bên trong chứa vật chứng còn lại sau khi lấy mẫu giám định thu giữ của Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P và Nguyễn Ngọc A + Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) máy điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J16+ màu đỏ, đã qua sử dụng số IMEI 1: 354402102934163; IMEI 2: 354403102934161; 01 (Một) máy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, đã qua sử dụng số IMEI 1: 861795044381773; IMEI 2: 861795044381765.

Tại phiên tòa các bị cáo nhận tội, không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Diễn Châu, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng; các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận:

Vào lúc 12 giờ 45 phút, ngày 27/8/2021, tại phòng ngủ nhà Nguyễn Văn Đ thuộc xóm Bắc X, xã Diễn X, huyện Diễn C, tỉnh Nghệ An, Vương Viết P cùng Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Ngọc A đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,4 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Công an xã Diễn Xuân, huyện Diễn Châu phát hiện bắt quả tang. Hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý; gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, vì vậy cần xét xử nghiêm minh và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Vụ án này có 03 bị cáo tham gia, tuy nhiên các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nên có tính chất đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo P, bị cáo Đ là người khởi xướng và góp tiền mua ma tuý; bị cáo Ánh là người liên lạc để mua ma tuý; 3 bị cáo đều cùng nhau sử dụng mua ma tuý; do vậy tính chất hành vi phạm tội của 3 bị cáo là tương đương nhau. Do đó khi quyết định hình phạt phải đánh giá đến tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo để lên mức án xác đáng.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Ngoài ra, bố bị cáo Nguyễn Ngọc A là ông Nguyễn Ngọc Điều là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang và Huân chương kháng chiến hạng Nhất nên bị cáo Ánh được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Tình tiết tăng nặng: không Nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P có nhân thân tốt. Bị cáo Nguyễn Ngọc A có nhân thân xấu, đã 03 lần bị Toà án xử phạt về các tội “Trộm cắp tài sản công dân” và “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Do vậy, bị cáo Nguyễn Ngọc A phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Nguyễn Văn Đ và Vương Viết P.

Đánh giá tính chất hành vi phạm tội; tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân của các bị cáo cần xét xử các bị cáo mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đủ nghiêm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có việc làm, không có tài sản nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về vật chứng:

- Đối với 01 (một) phong bì thư niêm phong bên trong chứa số ma tuý còn lại sau khi lấy mẫu giám định thu giữ của Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P và Nguyễn Ngọc A là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

- Đối với 01 (Một) máy điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J16+ màu đỏ, đã qua sử dụng số IMEI 1: 354402102934163; IMEI 2: 354403102934161; 01 (Một) máy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, đã qua sử dụng số IMEI 1: 861795044381773; IMEI 2: 861795044381765 là phương tiện các bị cáo liên lạch để mua ma tuý, sử dung ma tuý cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6]. Trong vụ án này, có người đàn ông tên Long là người giao dịch bán ma túy cho Nguyễn Ngọc A và người trực tiếp giao ma túy cho Phong (theo lời khai của Ánh và Phong), nhưng Ánh và Phong không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của Long nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Diễn Châu không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, các bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Vương Viết P, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Ngọc A đều phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Vương Viết P 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 27/8/2021).

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 27/8/2021).

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Nguyễn Ngọc A 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (ngày 27/8/2021).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì thư niêm phong đúng quy định bên trong chứa vật chứng sau khi lấy mẫu giám định thu giữ của Nguyễn Văn Đ, Vương Viết P và Nguyễn Ngọc A.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) máy điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J16+ màu đỏ, đã qua sử dụng số IMEI 1: 354402102934163; IMEI 2: 354403102934161; 01 (Một) máy điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen, đã qua sử dụng số IMEI 1: 861795044381773; IMEI 2: 861795044381765.

(Số vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục THADS huyện Diễn Châu theo Phiếu nhập kho số NK 075 và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/01/2022)

3. Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc các bị cáo Vương Viết P, Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Ngọc A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2022/HS-ST

Số hiệu:79/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về