Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 79/2022/HS-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2022/HSST ngày 10 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/QĐST-HS ngày 31/3/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1988 tại Cà Mau; giới tính: nữ; hộ khẩu thường trú: ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Cà Mau; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 02/12. Con ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1962 và bà Mạc Thị L1, sinh năm 1960, bị cáo có chồng Nguyễn Hùng T, sinh năm 1988 chưa đăng ký kết hôn, có 03 người con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2019. Tiền sự, tiền án: không.

Ngày 11/11/2021, có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt quả tang. Ngày 20/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã TU khởi tố bị can và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

- Ông Từ Hoàng L2;

- Bà Nguyễn Thị T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 11/11/2021, tổ tuần tra phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Bình Dương phối hợp cùng đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thị xã TU và Công an phường B tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện phòng trọ của Nguyễn Ngọc D tại khu nhà trọ Dương Văn M thuộc khu phố Bình Chánh, phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương có 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy để trên bàn, sau đó D lấy từ trong túi vải màu đen 06 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng và 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, D khai nhận là ma túy đá mua về để sử dụng và giao nộp cho tổ tuần tra. Tổ tuần tra tiến hành niêm phong tang vật, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Ngọc D về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 túi vải màu đen.

Tại Bản kết luận giám định số 743/MT-PC09 ngày 19/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng/trọng lượng M1: 0,2404 gam, M2: 0,5219 gam, tổng là 0,7623 gam.

Quá trình điều tra Nguyễn Ngọc D khai nhận: Nguyễn Ngọc D thường sử dụng ma túy loại Methamphetamine. Khoảng 09 giờ ngày 09/11/2021, D đang ở tại phòng trọ của mình thì người bạn tên H1 không rõ nhân thân đến chơi. Trong lúc nói chuyện H1 nói có bán ma túy, D hỏi mua của H1 1.500.000 đồng ma túy đá, H1 hẹn D đến khu vực nhà trẻ Sóc Bông thuộc phường B để lấy ma túy rồi H1 đi về. D đi bộ từ phòng trọ đến trước nhà trẻ Sóc Bông gặp H1, H1 nhận 1.500.000 đồng và đưa cho D 08 gói nylon hàn kín bên trong chứa ma túy đá cùng 01 túi nylon hàn kín bên trong chứa ma túy đá. D mang ma túy về phòng trọ, bỏ vào trong túi vải màu đen rồi cất dấu dưới gầm bàn. D đã lấy ra sử dụng hết 02 gói nylon chứa ma túy. Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 11/11/2021 tổ tuần tra kiểm tra hành chính phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ số ma túy D đang tàng trữ.

Cáo trạng số 76/CT-VKS.TU ngày 04/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc D mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định; 01bộ sử dụng ma túy, 01 túi vải màu đen.

Đối với người tên H1 đã bán ma túy cho Nguyễn Ngọc D, do chưa xác định được nhân thân, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã TU sẽ tiếp tục điều tra, xác M làm rõ và xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến tranh luận.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã TU, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: ngày 11/11/2021, tại khu phố Bình Chánh, phường B, thị xã TU, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Ngọc D có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy Methamphetamine khối lượng 0,7623 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ nhận thức để biết ma túy là chất gây nghiện mà Nhà nước cấm mua bán, sử dụng. Bị cáo cũng biết ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm, góp phần làm băng hoại đạo đức, lối sống, là mầm mống gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý lén tàng trữ để sử dụng. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Đối với 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với túi vải màu đen; 01 bộ sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: căn cứ điểm điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy còn lại theo Kết luận giám định số 743/MT-PC09 ngày 19/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 01 túi vải màu đen; 01 bộ sử dụng ma túy.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU).

4. Về án phí sơ thẩm: căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 79/2022/HS-ST

Số hiệu:79/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về