Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐƯỜNG, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 78/2023/HS-ST NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 78/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2023/QĐXXST-HS ngày 06/9/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phu Thị M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ;

Sinh ngày 10/11/1973;Tại: huyện T, tỉnh Lai Châu;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản T, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Lô Lô; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Phu Chỉ Lìn (đã chết); con bà Chảo Seo Đ, sinh năm 1951; có chồng là: Trần Ly D, sinh năm 1969; có 03 con (con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2001); Gia đình bị cáo có 03 chị, em. Bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/5/2023 đến ngày 27/5/2023 bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã S, huyện T và giao bị can cho UBND xã S quản lý, theo dõi đến nay “có mặt”.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Trần Ly D - Sinh năm: 1969; trú tại: Bản T, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu “có mặt” Người bào chữa cho bị cáo:

Ông Trần Văn H - Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp viên pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh L “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào chiều ngày 21/5/2023 Phu Thị M, sinh ngày 10/11/1973 trú tại bản T, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 25B1-325.XX (thuộc sở hữu của M và chồng là Trần Ly D) trên đường đi chợ về khi đến khu vực cổng Trung tâm y tế huyện T thuộc bản C, thị trấn T, tỉnh Lai Châu, M gặp một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch, M mua được 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng đốt dính một đầu với giá 400.000 đồng với mục đích để sử dụng. Mua được H1, M cất giấu vào túi áo khoác bên trong phía bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô đi về. Hồi 18 giờ 20 phút ngày 21/5/2023, khi Phu Thị M đang điều khiển xe mô tô đi về đến bản Km 2, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu thì bị Công an thị trấn T, huyện T phát hiện bắt quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thu giữ của M 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng đốt dính một đầu trong túi áo khoác M đang mặc. Sau đó, Công an thị trấn T bàn giao người bị bắt, vật chứng và tài liệu liên quan cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định tư pháp số 49 ngày 21/5/2023 của người giám định theo vụ việc kết luận: số chất bột màu trắng thu giữ của Phu Thị M có tổng khối lượng là 0,34 gam. Tại bản Kết luận giám định số 595 ngày 24/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh L kết luận: Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine (H).

Về vật chứng của vụ án: đối với 0,34 gam Heroine thu giữ của Phu Thị M, Cơ quan điều tra đã trích 0,17 gam gửi đi giám định chất ma túy (không hoàn lại mẫu vật).

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 0,17 gam Heroine, 02 mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 25B1-325.XX, hiện đang được lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Đường.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Bản cáo trạng số 70/CT-VKSTĐ, ngày 05/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đường truy tố bị cáo Phu Thị M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát huyện T đánh giá như sau: Quá trình điều tra, truy tố, đối với bị cáo Phu Thị M giữ nguyên quyết định truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phu Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phu Thị M từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo được khấu trừ 06 ngày bị tạm giữ. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đến cơ sở giam giữ chấp hành hình phạt tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì công văn của Công an huyện T niêm phong lại bằng cách dán kín phong bì bằng tờ giấy niêm phong màu trắng từ mặt sau ra mặt trước. Trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lò Văn Q, Phan Văn H2, Lê Trọng V, Đinh Thị H3, Sý Văn Ớ, điểm chỉ ngón trỏ phải của Phu Thị M. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng còn lại 0,17 gam cùng phong bì niêm phong, hai mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Phu Thị M, sinh năm 1973 trú tại bản T, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu, ngày 21/5/2023”. Trên các mép dán của tờ giấy niêm phong ở bốn góc mặt trước phong bì đóng bốn hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh Lai Châu.

Đề nghị: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 25B1-325.XX, xe có số khung RLCS5C6K0GY325193, số máy 5C6K-325193.

Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phu Thị M được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát; không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo theo quy định pháp luật. Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển kiểm soát 25B1-325.XX do bị cáo không sử dụng xe mô tô để cất giấu ma túy và không phải là vật chứng của vụ án theo quy định tại Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo và không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối đáp của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Đối với đề nghị của người bào chữa cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo là phù hợp với đề nghị của Viện kiểm sát nên đề nghị HĐXX xem xét, cân nhắc. Đối với đề nghị trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25B1- 325.04 cho bị cáo Phu Thị M là không có căn cứ vì bị cáo đã sử dụng chiếc xe mô tô làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên Viện kiểm sát đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước là đúng theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Do đó, đề nghị của người bào chữa là không có căn cứ, đề nghị HĐXX không chấp nhận.

Bị cáo Phu Thị M không có tranh luận gì với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Phu Thị M xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo; tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra bị cáo Phu Thị M đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đều phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định: Hồi 18 giờ 20 phút ngày 21 tháng 5 năm 2023, tại bản Km 2, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu, Phu Thị M đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,34 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an thị trấn T phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện chất ma túy nên đã thúc đẩy bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Hành vi của bị cáo Phu Thị M thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trừ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự đối với bị cáo của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự là tái phạm.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đề răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Tại phiên tòa, người bào chữa đề nghị trả lại cho bị cáo chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25B1-325.XX, xác định chiếc xe này là phương tiện bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị của người bào chữa là không có căn cứ để chấp nhận.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo nghề nghiệp làm ruộng, thu nhập không ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 0,17 gam (Không phẩy mười bảy gam) Heroine thu giữ của Phu Thị M đã gửi đi giám định (không hoàn lại mẫu vật) nên hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 phong bì công văn của Công an huyện T niêm phong lại bằng cách dán kín phong bì bằng tờ giấy niêm phong màu trắng từ mặt sau ra mặt trước. Trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lò Văn Q, Phan Văn H2, Lê Trọng V, Đinh Thị H3, Sý Văn Ớ, điểm chỉ ngón trỏ phải của Phu Thị M. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng còn lại 0,17 gam cùng phong bì niêm phong, hai mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Phu Thị M, sinh năm 1973 trú tại bản T, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu, ngày 21/5/2023”. Đây là công cụ bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội, là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ - đen, biển kiểm soát 25B1- 325.04, xe có số khung RLCS5C6K0GY325193, số máy 5C6K-3251XX đây là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[5] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Phu Thị M khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Đối với Trần Ly D là đồng sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25B1-325.XX. Quá trình điều tra xác định D không biết việc M sử dụng chiếc xe mô tô để đi mua Heroine sử dụng. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Trần Ly D là đúng quy định.

[6] Án phí:

Tại phiên tòa, bị cáo Phu Thị M đề nghị hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Xét thấy, bị cáo Phu Thị M là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, theo quy định Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phu Thị M thuộc trường hợp miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điềm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phu Thị M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phu Thị M 18 (Mười tám) tháng tù, bị cáo được khấu trừ 06 (Sáu) ngày tạm giữ. Bị cáo còn phải chấp hành 17 (Mười bảy) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đến cơ sở giam giữ chấp hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì công văn của Công an huyện T niêm phong lại bằng cách dán kín phong bì bằng tờ giấy niêm phong màu trắng từ mặt sau ra mặt trước. Trên các mép dán của mảnh giấy niêm phong có các chữ ký và ghi rõ họ tên của: Lò Văn Q, Phan Văn H2, Lê Trọng V, Đinh Thị H3, Sý Văn Ớ, điểm chỉ ngón trỏ phải của Phu Thị M. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng còn lại 0,17 gam cùng phong bì niêm phong, hai mảnh nilon màu trắng gói vật chứng ban đầu thu giữ của Phu Thị M, sinh năm 1973 trú tại bản T, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu, ngày 21/5/2023”.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu sơn đỏ- đen, biển kiểm soát 25B1-325.XX, xe có số khung RLCS5C6K0GY3251xx, số máy 5C6K-3251xx.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14 giờ 45 phút ngày 05 tháng 9 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tam Đường).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phu Thị M.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 78/2023/HS-ST

Số hiệu:78/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đường - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về