Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 77/2022/HS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 92/2022/HSST-QĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Hoài P, sinh năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Ấp T, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn R và bà Lê Thị M; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 30/7/2019, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 293/QĐ-TA với thời hạn 18 tháng, chấp hành xong ngày 30/01/2021; nhân thân: Ngày 09/7/2008, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 tháng 11 ngày tù về tội “trộm cắp tài sản”, trả tự do tại phiên tòa. Ngày 25/9/2012, Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định số 7845/QĐ-UBND về việc đưa người vào cơ sở chữa bệnh tại Trung tâm Giáo dục Dạy nghề và Giải quyết việc làm Nhị Xuân, thời hạn 24 tháng; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Ông Lê Quốc S, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 22/10/2021, Đặng Hoài P điều khiển xe đạp đến nhà S tại số 137B đường số 17, ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh để mua chất ma túy. P gặp S hỏi mua 500.000 (năm trăm nghìn) đồng chất ma túy thì S đồng ý. S bảo P đứng phía ngoài nhà, đưa tiền qua khe cửa trước nhà và nhận 02 gói chất ma túy cũng qua khe cửa. Sau đó, P cầm 02 gói chất ma túy trên tay rồi điều khiển xe đạp đi về. Khi đến đường số 15, ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an huyện Củ Chi phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. P ném 02 gói chất ma túy xuống đất và bỏ chạy khoảng 20 mét thì bị Công an bắt giữ. Quá trình điều tra, Đặng Hoài P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Kết luận giám định số 5742/KLGĐ-MT ngày 29/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 02 gói giấy màu xanh được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, chữ ký ghi tên Đặng Hoài P và hình dấu Công an xã H, huyện C đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,1825g (không phẩy một tám hai năm gam), loại Heroine.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói niêm phong mang số vụ 1286/2021 có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên; 01 (một) xe đạp; 01 (một) điện thoại di động hiệu Epic có số Imeil: 355685025177287 đã qua sử dụng.

Tại Cáo trạng số 36/CT-VKS.CC ngày 25 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị can Đặng Hoài p về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Hoài P thừa nhận hành vi phạm tội và khai rằng: Bị cáo là người nghiện ma túy. Khoảng 02 đến 03 ngày, bị cáo đến nhà S để mua chất ma túy về sử dụng. Mỗi lần bị cáo mua từ 100.000 (một trăm nghìn) đồng đến 500.000 (năm trăm nghìn) đồng. Khoảng 20 giờ ngày 22/10/2021, bị cáo điều khiển xe đạp đến nhà S tại số 137B đường số 17, ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh để mua chất ma túy. Bị cáo hỏi mua 500.000 (năm trăm nghìn) đồng chất ma túy thì S đồng ý rồi vào nhà đóng cửa lại. S bảo bị cáo đưa tiền qua khe cửa trước nhà. Bị cáo nhận 02 gói giấy màu xanh chứa chất ma túy. Bị cáo cầm 02 gói chất ma túy trên tay rồi điều khiển xe đi về. Khi về đến đường số 15, ấp L, xã H, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị lực lượng Công an huyện Củ Chi yêu cầu bị cáo dừng xe kiểm tra. Bị cáo sợ ném 02 gói chất ma túy xuống đất và bỏ chạy khoảng 20 mét thì bị Công an bắt giữ, thu giữ của bị cáo 02 gói chất ma túy, 01 xe đạp và 01 điện thoại di động hiệu Epic. Điện thoại bị cáo dùng để liên lạc với gia đình. Bị cáo xin nhận lại điện thoại di động để sử dụng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi giữ quyền công tố phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Hoài P mức án từ 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong mang số vụ 1286/2021 có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) xe đạp.

Trả lại cho bị cáo p 01 (một) điện thoại di động hiệu Epic có số Imeil: 355685025177287 đã qua sử dụng.

Bị cáo Đặng Hoài P không tranh luận, không tự bào chữa.

Bị cáo Đặng Hoài P nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh; điều luật áp dụng; tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Bị cáo Đặng Hoài P có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói chất ma túy có khối lượng 0,1825g, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng. Bằng hành vi trên bị cáo Đặng Hoài P đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố bị cáo Đặng Hoài P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý dược liệu, dược phẩm độc hại, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng đến đời sống và sinh hoạt tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là sai trái, phạm pháp nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên đi đến hành động phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng một hình phạt phù hợp quy định pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo phần nào về hình phạt là có căn cứ.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo Đặng Hoài P không có nghề nghiệp ổn định. Bị cáo mua chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, Hội đồng xét xử xét không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại Điều 32 và Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về vật chứng vụ án:

01 (một) xe đạp đây là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội. Hội đồng xét xử xét cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

01 (một) điện thoại di động hiệu Epic có số Imeil: 355685025177287 đã qua sử dụng đây là tài sản của bị cáo P không liên quan đến việc thực hiện tội phạm. Tại phiên tòa, bị cáo xin nhận lại để sử dụng. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ nên chấp nhận.

01 (một) gói niêm phong mang số vụ 1286/2021 có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên, Hội đồng xét xử xét cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về các vấn đề khác:

Lê Quốc S không thừa nhận bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Đặng Hoài P. Ngoài lời khai của bị cáo P thì không có chứng cứ khác để chứng minh nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý S. Hội đồng xét xử thấy phù hợp nên không xét.

[8] Về nghĩa vụ chịu án phí:

Buộc bị cáo Đặng Hoài P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Hoài P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Hoài P 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 10 năm 2021.

Căn cứ vào Điểm a, b Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong mang số vụ 1286/2021 có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) xe đạp.

Trả lại cho bị cáo Đặng Hoài P 01 (một) điện thoại di động hiệu Epic có số Imeil: 355685025177287 đã qua sử dụng.

(Các vật chứng trên được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 13/PNK ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi).

Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Phí và lệ phí năm 2015, Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng buộc bị cáo Đặng Hoài P phải chịu.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2022/HS-ST

Số hiệu:77/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về