Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 76/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 76/2021/HS-ST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2021 và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Duy Đ, sinh ngày: 26/11/1973, tại huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: xóm 6, xã Qu, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Trần Xuân Đ1 và bà Phạm Thị Ch; có vợ Trần Thị H và 01 con sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 25/11/2015 Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình xử phạt 09 tháng thù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 25/5/2017; bị tạm giữ từ ngày 07/7/2021 đến ngày 14/7/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay. (có mặt).

- Người làm chứng: ông Bùi Văn Đ2 (vắng mặt).

- Người chứng kiến: ông Trần Ích Ch1 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 10 phút, ngày 07/7/2021, tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn phường Trung Sơn. Khi đến vỉa hè trước cửa nhà số 23, đường Lê Trọng Tấn, tổ 1, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình thấy có 01 người đàn ông lạ mặt đang ngồi uống nước ở quán nước. Tổ công tác đến yêu cầu kiểm tra hành chính, khi đến cách khoảng 3m thì thấy người này thả 01 gói bọc ngoài bằng giấy màu trắng từ tay trái xuống vỉa hè ngay cạnh chỗ ngồi. Tại chỗ, người đàn ông này khai tên là Trần Duy Đ và không xuất trình được giấy tờ tùy thân. Khi hỏi Đ vừa thả gói gì xuống vỉa hè thì Đ khai nhận khi thấy tổ công tác nên Đông đã thả gói ma túy loại Heroine xuống vỉa hè. Đ khai nhận sáng ngày 07/7/2021, Đ được một người quen tên H rủ lên thành phố Tam Điệp chơi và đưa cho Đ 200.000 đồng để mua ma túy; Đ đã mua của người đàn ông không quen biết theo chỉ dẫn của H rồi mang theo để cùng sử dụng. Tổ công tác thu giữ và kiểm tra xác định bên trong lớp giấy màu trắng bọc ngoài có 01 túi nilon màu trắng kích thước (5x3)cm, trong túi nilon màu trắng có 01 gói giấy nhỏ màu trắng kích thước (1x2,5)cm, có chứa chất bột dạng cục màu trắng rồi tiến hành niêm phong lại. Sau đó đưa Đ cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Công an phường Trung Sơn làm việc. Ngoài ra, quá trình kiểm tra còn thu giữ của Trần Duy Đ 01 giấy phép lái xe tên Trần Duy Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, lắp 01 sim Viettel số thuê bao 0335.482.800 và 01 sim Vinaphone số thuê bao 0912.683.264; số tiền 725.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng đục thu giữ của Trần Duy Đ và kí hiệu M gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 553/KLGĐ-PC09-MT ngày 14/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,2373 gam là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Tại bản cáo trạng số 81/CT-VKS ngày 19 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Trần Duy Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Duy Đ và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Duy Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Trần Duy Đ từ 18 tháng đến 21 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ 07/7/2021.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ các vật chứng, bao gồm: 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ phong bì giấy đã xé rách một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 mảnh giấy mềm màu trắng KT (20x20)cm; 01 mảnh giấy màu trắng KT (5x5)cm; 01 vỏ túi nilon màu trắng KT (5x3)cm; 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi số 553/KLGĐ-PC09-MT, vụ Trần Duy Đ, sinh năm 1973, trú tại Quang Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình, xảy ra ngày 07/7/2021 tại phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, mẫu vật hoàn trả gồm M=0,1660 gam là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại di đông thu giữ của Trần Duy Đ.

- Hoàn trả lại cho bị cáo Trần Duy Đ số tiền 725.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Duy Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình với diễn biến sự việc đúng như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khẳng định bản thân bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đồng ý với luận tội của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Người làm chứng ông Bùi Văn Đ3 trình bày: ngày 07/7/2021, ông thấy Trần Duy Đ cất giữ 01túi nilon, bên trong có chất bột dạng cục màu trắng. Trần Duy Đ khai nhận, túi nilon là Heroine mang theo để sử dụng.

Người chứng kiến ông Trần Ích Ch1 trình bày: ngày 07/7/2021, ông được mời chứng kiến việc Công an kiểm tra đối với Trần Duy Đ. Diễn biến sự việc như cáo trạng đã nêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 07/7/2021 (BL12 đến BL15), Biên bản mở niêm phong cân xác định khối lượng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại (BL59), Kết luận giám định số 553/KLGĐ-PC09-MT ngày 14/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình (BL62) và các tang vật, tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đầy đủ cơ sở kết luận: khoảng 11 giờ 10 phút, ngày 07/7/2021, tại khu vực vỉa hè trước cửa nhà số 23, đường Lê Trọng Tấn, tổ 1, phường Trung Sơn thành phố Tam Điệp, Trần Duy Đ có hành vi tàng trữ 0,2373 gam, là ma túy, loại Heroine để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

[2] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi tàng trữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân như đã nêu trên là trái phép, là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an ở địa phương, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c) Heroine, Cocaine, Methaphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Duy Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần được áp dụng cho bị cáo.

[4] Về nhân thân: bị cáo đã từng vi phạm pháp luật, bị Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình kết án về tội “Trộm cắp tài sản”.

[5] Về hình phạt: xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo cần phải có hình phạt thích đáng đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chịu hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, có như vậy mới có tác dụng giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho gia đình và cho xã hội, đồng thời đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo phạm tội để phục vụ cho nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, không có mục đích kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Đối với chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã cũ, lắp 01 sim Viettel số thuê bao 0335.482.800 và 01 sim Vinaphone số thuê bao 0912.683.264 và 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Duy Đ. Qua điều tra, xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo, anh Nguyễn Văn Quyền đã nhận lại theo ủy quyền của bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

Đối với các vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp quản lý gồm: 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ phong bì giấy đã xé rách một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 mảnh giấy mềm màu trắng KT (20x20)cm; 01 mảnh giấy màu trắng KT (5x5)cm; 01 vỏ túi nilon màu trắng KT (5x3)cm; 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi số 553/KLGĐ-PC09-MT, vụ Trần Duy Đ, sinh năm 1973, trú tại Quang Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình, xảy ra ngày 07/7/2021 tại phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, mẫu vật hoàn trả gồm M=0,1660 gam là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong; 01 vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại di đông thu giữ của Trần Duy Đ. Trong đó, số ma túy là vật cấm tàng trữ, các vật chứng còn lại không còn giá trị sử dụng nên căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 725.000 đồng thu giữ của bị cáo. Qua điều tra xác minh là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo.

[8] Về nguồn gốc ma túy: bị cáo khai nhận ngày 07/7/2021 được người đàn ông tên Hùng rủ lên thành phố Tam Điệp chơi và cùng sử dụng ma túy, Hùng là người đưa tiền và chỉ người bán ma túy. Qua điều tra xác minh, bị cáo không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của Hùng ở đâu, Hùng sử dụng số điện thoại thuê bao 0969.031.683 gọi đến cho Hùng. Qua xác minh, chủ thuê bao 0969.031.683 là anh Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1986 (địa chỉ: thôn Đông Lạ, xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), anh Minh xác định không đăng ký và sử dụng số thuê bao này và không quen biết người nào tên Hùng. Vì vậy, không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên tuổi, địa chỉ ở đâu nên không có sở sở điều tra, xử lý.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Tuyên bố: bị cáo Trần Duy Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Duy Đ 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 07/7/2021.

2. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi vật chứng lưu kho: 01 vỏ phong bì giấy đã xé rách một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 mảnh giấy mềm màu trắng KT (20x20)cm; 01 mảnh giấy màu trắng KT (5x5)cm; 01 vỏ túi nilon màu trắng KT (5x3)cm;

- 01 phong bì giấy dán kín, bên ngoài ghi số 553/KLGĐ-PC09-MT, vụ Trần Duy Đ, sinh năm 1973, trú tại Quang Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình, xảy ra ngày 07/7/2021 tại phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, mẫu vật hoàn trả gồm M=0,1660 gam là ma túy, loại Heroine; toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong;

- 01 vỏ phong bì bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong điện thoại di đông thu giữ của Trần Duy Đ.

(Chi tiết vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 29/10/2021 giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp).

+ Trả cho bị cáo số tiền 725.000 đồng.

(Số tiền đã được chuyển đến tài khoản tạm gửi của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp theo ủy nhiệm chi lập ngày 26/10/2021)

3. Về án phí: bị cáo Trần Duy Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 24/11/2021.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 76/2021/HS-ST

Số hiệu:76/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về