Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BN ÁN 75/2023/HS-ST NGÀY 17/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Văn Bình A, sinh năm 1991, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B và bà Đặng Thị N (đã chết); có vợ là Võ Thị Hồng L 03 người con lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2021;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Nhân thân: Ngày 24/02/2009, bị Ủy ban nhân dân huyện C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “03 lần gây rối trật tự công cộng và trộm cắp tài sản”, thời hạn 02 năm, chấp hành xong ngày 13/12/2010;

Bị tạm giữ từ ngày 13/7/2023 đến ngày 22/7/2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Ông Lê Văn H1, sinh năm 1960; nơi cư trú: ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.

- Bà Võ Thị Hồng L, sinh năm 1993; nơi cư trú: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Ngưi làm chứng:

- Ông Lê Văn M; vắng mặt.

- Ông Thái Đức L1; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn Đ; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/7/2023, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã M phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế và Ma túy - Công an huyện C bắt quả tang Trần Văn B1 Anh có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực vườn xoài của Nguyễn Văn Đ ở ấp T, xã M, thu giữ bên trong túi áo thun màu đỏ của Bình A đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, mặt sau vỏ bao thuốc lá có 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất tinh thể màu trắng, được quấn băng keo màu đen, Bình A khai nhận là ma túy đá, mua của người lạ (không rõ họ, tên, địa chỉ) ở tỉnh Đồng Tháp, giá 500.000 đồng, để sử dụng.

- Vật chứng thu giữ: 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu; 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất tinh thể màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON; 01 áo thun dài tay màu đỏ, có túi phía trước bên trái; 01 bọc nilon trong suốt; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có lắp thẻ sim VIETTEL; 01 xe mô tô nhãn hiệu KAWASHAKI, màu đỏ đen và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 66P1-X, cấp ngày 03/02/2018, chủ xe tên Lê Văn H1.

- Kết luận giám định số 136/KL-KTHS(MT-GT) ngày 21/7/2023 của Phòng K - Công an tỉnh A: Mẫu M1, M2 gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5818 gam.

Ngày 22/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C khởi tố Trần Văn B1 Anh để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 24 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Trần Văn B1 Anh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Võ Thị Hồng L cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Pháp luật nghiêm cấm mọi hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy dưới mọi hình thức. Methamphetamine là chất ma túy. Nguyên nhân phạm tội do bị cáo bị nghiện, xem thường pháp luật nên mua ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân không tốt do đã bị Ủy ban nhân dân huyện C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “03 lần gây rối trật tự công cộng và trộm cắp tài sản”, với thời hạn 02 năm vào ngày 24/02/2009. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lần đầu phạm tội. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo bị nghiện, làm thuê, thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu, 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất tinh thể màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, 01 áo thun dài tay màu đỏ, có túi phía trước bên trái và 01 bọc nilon trong suốt; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có lắp thẻ sim VIETTEL; giao trả cho bà Võ Thị Hồng L 01 xe mô tô nhãn hiệu KAWASHAKI, biển số 66P1-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 66P1-X, cấp ngày 03/02/2018.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Trần Văn Bình A khai nhận, khoảng 15 giờ ngày 11/7/2023, bị cáo điện thoại, đặt mua ma túy của người thanh niên lạ (không rõ họ tên, địa chỉ), được người bạn nghiện tên Mười M1 (không rõ họ tên, địa chỉ) giới thiệu trước đó, với giá 500.000 đồng và hẹn giao nhận tại đoạn đường vắng gần Bến đò M, thuộc bờ thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Sau đó, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 66P1-X đến điểm hẹn trả 500.000 đồng, nhận 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, mặt sau vỏ bao thuốc lá có 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất tinh thể màu trắng, được quấn băng keo màu đen, rồi mang về nhà cất giấu để sử dụng. Đến khoảng 19 giờ ngày 13/7/2023, bị cáo lấy ma túy đã mua giấu vào túi áo màu đỏ đang mặc, rồi điều khiển xe mô tô biển số 66P1-X đến khu vực vườn xoài của ông Nguyễn Văn Đ, thuộc xã M, huyện C để bắt ốc, sử dụng ma túy khi về khuya. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo bị lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ bên trong túi áo thun màu đỏ mà bị cáo đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, mặt sau vỏ bao thuốc lá có 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất ma túy, được quấn băng keo màu đen và các vật chứng khác có liên quan.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 13/7/2023 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 14/7/2023 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C lập; lời khai của ông Lê Văn M, ông Thái Đức L1, ông Nguyễn Văn Đ về việc chứng kiến lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ của bị cáo 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON, mặt sau vỏ bao thuốc lá có 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong vỏ bao thuốc lá có 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất tinh thể màu trắng, được quấn băng keo màu đen tại vườn xoài của ông Đ, vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/7/2023. Khi đó, bị cáo khai chất tinh thể màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa, 01 bịch nilon là ma túy đá; lời khai của bà Võ Thị Hồng L (vợ của bị cáo) về việc nghe bị cáo nói đi bắt ốc, rồi lấy xe mô tô biển số 66P1-X của bà L chạy đi vào khoảng 19 giờ ngày 13/7/2023.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 đoạn ống nhựa chứa chất tinh thể màu trắng được hàn kín hai đầu; 01 bịch nilon có rãnh khóa một đầu chứa chất tinh thể màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON; 01 áo thun dài tay màu đỏ, có túi phía trước bên trái; 01 bọc nilon trong suốt; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, màu đen, có lắp thẻ sim VIETTEL; 01 xe mô tô nhãn hiệu KAWASHAKI, biển số 66P1-X và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 66P1-X, cấp ngày 03/02/2018.

Theo Kết luận giám định số 136/KL-KTHS(MT-GT) ngày 21/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh A, chất tinh thể màu trắng bên trong 01 đoạn ống nhựa, 01 bịch nilon thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5818 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5818 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân:

Ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Tệ nạn ma túy được xem là nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống; làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân không tốt do đã bị Ủy ban nhân dân huyện C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi “03 lần gây rối trật tự công cộng và trộm cắp tài sản”, với thời hạn 02 năm vào ngày 24/02/2009. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của người liên quan:

Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo mua của người thanh niên lạ do người tên Mười M1 giới thiệu. Do chưa xác định được họ tên, địa chỉ của người thanh niên bán ma túy cho bị cáo, người tên Mười M1 giới thiệu để bị cáo mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON và 01 bọc nilon trong suốt là vật chứa ma túy. Một áo thun dài tay màu đỏ, có túi phía trước bên trái là trang phục được bị cáo mặc vào ngày xảy ra sự việc nên là vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy và các vật này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- 01 điện thoại di động hiệu NOKIA, có lắp thẻ sim VIETTEL được bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy nên là phương tiện phạm tội. Vì vậy, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước điện thoại di động hiệu NOKIA cùng sim số kèm theo theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 66P1-X, mặc dù, theo Phiếu trả lời xác minh xe ngày 05/10/2023 của Công an huyện C, xe mô tô biển số 66P1-X do ông Lê Văn H1 đứng tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, ông Lê Văn H1 khai đã bán xe mô tô này cho người lạ, chưa sang tên chủ sở hữu. Đồng thời, theo lời khai của bị cáo, bà Nguyễn Thị H, bà Võ Thị Hồng L thì bà H đã mua xe mô tô này từ người lạ vào năm 2018, chưa làm thủ tục sang tên và bán lại cho bà L vào khoảng tháng 7/2022, cũng chưa sang tên chủ sở hữu. Xe mô tô này là tài sản riêng của bà L. Cho nên, có căn cứ xác định bà L là người quản lý, sử dụng hợp pháp xe mô tô biển số 66P1-X.

Do bà L không có lỗi để bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 66P1-X làm phương tiện mua ma túy, tìm nơi sử dụng ma túy nên giao trả xe mô tô biển số 66P1-X cùng giấy đăng ký xe mô tô kèm theo cho bà L theo khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Trần Văn B1 Anh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Trần Văn B1 Anh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, ngày 13/7/2023 (ngày mười ba, tháng bảy, năm hai nghìn không trăm hai mươi ba).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số: 136/KL- KTHS(MT-GT) ngày 21 tháng 7 năm 2023) có in hình d ấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H2, Nguyễn Thành D. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, khối lượng: Mẫu M1: 0,0566g (không phẩy không năm sáu sáu gam); Mẫu M2: 0,4371g (không phẩy bốn ba bảy một gam);

+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu NELSON;

+ 01 (một) áo thun dài tay, màu đỏ, có túi phía trước bên trái (kiểu áo nam);

+ 01 (một) bọc nilon trong suốt.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ bên ngoài màu đen, có lắp thẻ sim mạng VIETTEL (đã qua sử dụng).

- Giao trả cho bà Võ Thị Hồng L 01 (một) xe mô tô, màu sơn đỏ đen, biển số 66P1-X (đã qua sử dụng) và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 080054, cấp ngày 03/02/2018, đơn vị cấp: Phòng C Công an tỉnh Đ.

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 14/11/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Văn Bình A phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bà Võ Thị Hồng L có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, ông Lê Văn H1 là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2023/HS-ST

Số hiệu:75/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về