Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 74/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2022/HSST ngày 03 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh năm 1990 tại S; giới tính: nam; hộ khẩu thường trú: khóm 1, phường 5, thành phố S, tỉnh S; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khmer; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 0/12. Con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1959 và bà Danh Thị Kim H, sinh năm 1964; bị cáo có 07 chị, em lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 2002. Tiền sự: không Tiền án:

- Ngày 28/02/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt 09 tháng tù tại Bản án số 21/2012/HSST ngày 28/02/2012. Bị cáo đóng án phí vào ngày 15/5/2012; chấp hành xong hình phạt ngày 24/5/2012, chưa bồi thường trách nhiệm dân sự.

- Ngày 28/12/2012 bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S xử phạt 01 năm 06 tháng tù tại Bản án số 103/2012/HSST ngày 28/12/2012. Bị cáo được đình chỉ việc thi hành án phí; chấp hành xong hình phạt ngày 24/01/2014, chưa bồi thường trách nhiệm dân sự.

Nhân thân: Ngày 24/6/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S xử phạt 04 năm tù tại Bản án số 42/2016/HSST ngày 24/6/2016 . Bị cáo đóng án phí vào ngày 09/9/2016, chấp hành xong hình phạt ngày 10/9/2019.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Công an thị xã TU từ ngày 22/11/2021 đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Chí T;

- Ông Lâm Văn G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 22/11/2021, Công an phường K kiểm tra hành chính nhà Trọ Lâm Văn G tại khu phố B, phường K, thị xã TU, tỉnh Bình Dương, phát hiện tại phòng trọ của Nguyễn Minh T đang thuê có 02 thanh niên biểu hiện nghi vấn sử dụng ma túy nên tổ tuần tra yêu cầu 02 thanh niên lấy hết đồ vật trong người ra để kiểm tra. Nguyễn Minh T lấy trong túi quần 01 bóp da màu đen, trong bóp có 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy đá mua về để sử dụng. Lực lượng kiểm tra niêm phong tang vật, đưa T đến trụ sở Công an phường K lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 (Một) gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 cái bóp da màu đen.

Tại Bản kết luận giám định số 760/MT-PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: gói nylon hàn kín chứa tinh thể trắng thu giữ của Nguyễn Minh T là chất ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 3,3867 gam.

Quá trình điều tra Nguyễn Minh T khai nhận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 22/11/2021, do cần ma túy để sử dụng, T bộ đi từ phòng trọ thuộc khu phố B, phường K, thị xã TU, tỉnh Bình Dương ra đường được khoảng 20 mét thì thấy người bạn tên C không rõ nhân thân đang điều khiển xe mô tô không rõ biển số đi qua. T hỏi mượn xe của C đi công việc, C đồng ý và đứng đợi T phía trước phòng trọ của T. T điều khiển xe đến khu vực ngã tư Đ, phường H, thị xã TU để tìm gặp đối tượng tên Rớt mua ma túy. Trước đây T đã mua ma túy của Rớt 02 lần nhưng không biết nhân thân. Khi gặp Rớt, T đưa cho Rớt số tiền 2.000.000 đồng để mua ma túy, Rớt đưa cho T 01 gói nylon miệng hàn kín bên trong chứa ma túy. Sau khi mua được ma tuý, T về phòng trọ trả xe mô tô cho C rồi lấy một ít ma túy vừa mua cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy và sử dụng, số ma túy còn lại T cất giấu ở bên trong ví da. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Công an phường K kiểm tra hành chính phòng trọ của T thì phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ ma túy còn lại T đang tàng trữ.

Cáo trạng số 73/CT-VKS.TU ngày 03/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T mức hình phạt từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định, 01bộ sử dụng ma túy, 01 bóp da màu đen.

Đối với người tên Rớt đã bán ma túy cho Nguyễn Minh T, do chưa xác định được nhân thân, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã TU sẽ tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến tranh luận.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình sai trái, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã TU, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: ngày 22/11/2021, tại khu phố B, phường K, thị xã TU, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Minh T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 3,3867 gam với mục đích sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Ngày 28/02/2012, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 21/2012/HSST ngày 28/02/2012. Bị cáo đóng án phí vào ngày 15/5/2012; chấp hành xong hình phạt ngày 24/5/2012, chưa bồi thường trách nhiệm dân sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự, bị cáo thuộc trường hợp chưa được xóa án tích.

Ngày 28/12/2012 , bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S xử phạt 01 năm 06 tháng tù tại Bản án số 103/2012/HSST ngày 28/12/2012. Bị cáo được đình chỉ việc thi hành án phí; chấp hành xong hình phạt ngày 24/01/2014, chưa bồi thường trách nhiệm dân sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật hình sự, bị cáo thuộc trường hợp tái phạm.

Ngày 22/11/2021 bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với lỗi cố ý trực tiếp, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 73/CT-VKS.TU ngày 03/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước. Bị cáo đủ nhận thức để biết ma túy là chất gây nghiện mà Nhà nước cấm mua bán, sử dụng. Bị cáo cũng biết ma túy là tệ nạn xã hội nguy hiểm, góp phần làm băng hoại đạo đức, lối sống, là mầm mống gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý lén lút tàng trữ để sử dụng. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về nhân thân: ngày 24/6/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S xử phạt 04 năm tù tại Bản án số 42/2016/HSST ngày 24/6/2016. Bị cáo đóng án phí vào ngày 09/9/2016, chấp hành xong hình phạt ngày 10/9/2019.

[7] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Đối với 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm tàng trữ, cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 bóp da màu đen bị cáo không yêu cầu nhận lại, 01 bộ sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: căn cứ điểm điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/11/2021.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong bên trong có chứa ma túy còn lại theo Kết luận giám định số 760/MT-PC09 ngày 01/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 01 bóp da màu đen; 01 bộ sử dụng ma túy.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2022/HS-ST

Số hiệu:74/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về