Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Điều kiện để doanh nghiệp được khấu trừ khi tính thuế TNDN đối với khoản chi tiền lương làm thêm giờ là gì?Ngày 14 tháng 12 năm 2023 tại phòng xét xử trực tuyến điểm cầu Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H và điểm cầu Trại tạm giam số 01 Công an Thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2023/TLST - HS ngày 15 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2023/QĐXXST - HS, ngày 30 tháng 11 năm 2023 đối với:

Bị cáo Bùi Văn S, sinh năm 1977 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại: Thôn Bái X, xã Minh T, huyện P, Thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Ngọc S và bà Bùi Thị T; vợ là Bùi Thị H và 02 con (lớn 24 tuổi, nhỏ 13 tuổi); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2017/HSST ngày 19/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện P, Thành phố H xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện P, Thành phố H. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 25/9/2023, Bùi Văn S đi từ nhà ở thôn Bái X, xã Minh T, huyện P, Thành phố H đến khu vực cầu Hòa K, xã Bạch H, huyện P, Thành phố H tìm mua ma tuý để sử dụng. Tại đây S mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng của người đàn ông tên B (không biết tên, tuổi thật, địa chỉ). Sau khi mua được ma tuý, S cầm ở tay trái ra về đến cống ông Hán đường tỉnh lộ 428 thuộc địa phận thôn Bái X, xã Minh T, huyện P thì bị Công an xã Minh T, huyện P kiểm tra hành chính, S đã tự nguyện giao nộp gói ma túy. Công an xã Minh T đã lập biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng giao cho Công an huyện P gửi đi giám định theo quy định pháp luật.

Tại bản kết luận giám định số 6528/KL-KTHS ngày 02/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố H kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy (bọc ngoài nilông màu đen) là ma túy loại Heroin, khối lượng 0,169gam.”.

Tại cáo trạng số 67/CT - VKS ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P giữ nguyên quan điểm về tội danh, điều luật áp dụng theo nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Đề nghị tịch thu tiêu huỷ vật chứng của vụ án, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung, đồng thời buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tranh luận tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận Cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân, không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên... trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nội dụng vụ án:

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với nội dung kết luận của cơ quan điều tra, Cáo trạng của Viện kiểm sát, phù hợp lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, Sơ đồ hiện trường, Biên bản thu giữ vật chứng, Biên bản niêm phong vật chứng, Kết luận giám định... có đủ căn cứ để khẳng định: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 25/9/2023, tại cống ông Hán đường tỉnh lộ 428 thuộc địa phận thôn Bái X, xã Minh T, huyện P, Thành phố H, Công an xã Minh T, huyện P bắt quả tang Bùi Văn S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,169 gam ma túy loại Heroin mục đích để sử dụng cho bản thân. Với hành vi nêu trên, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Bùi Văn S ra trước Tòa để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng pháp luật, tội danh và hình phạt quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an địa phương và là nguyên nhân dẫn đến các vi phạm pháp luật khác như trộm cắp, cướp giật... khiến dư luận bất bình, lên án, đòi hỏi phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự với một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo giáo dục bị cáo nhận thức rõ tội lỗi của mình mà tu tỉnh về sau đồng thời cũng là để làm gương cho người khác.

Khi quyết định hình phạt, đã cân nhắc đến việc bị cáo quá trình tố tụng thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo có anh ruột là Liệt sĩ là tình tiết quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà giảm nhẹ một phần hình phạt để chứng tỏ sự khoan hồng của Pháp luật.

Do hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, động cơ mục đích phạm tội không nhằm trục lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung bằng phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người nam giới theo S khai tên B đã bán ma túy cho S tại khu vực cầu Hòa K, xã Bạch H, huyện P, TP H. Do S không biết tên, tuổi thật và địa chỉ của người nam giới này, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không làm rõ được nên chưa xét trong vụ án này.

Về vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Bùi Văn S và giám định viên, bên trong là ma túy loại Heroin có khối lượng 0,169 gam là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt, bị cáo còn phải chịu khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật hình sự, xử:

Phạt bị cáo Bùi Văn S 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/9/2023. (Có Quyết định tạm giam kèm theo).

3. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu để tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong, mặt trước có hình dấu vuông, bên trong có ghi Công an Thành phố H, đơn vị Công an huyện P, tên đối tượng Bùi Văn S, ngày niêm phong 25/9/2023; mặt sau phong bì có chữ ký của đối tượng và giám định viên, bên trong có chứa 0,169 gam ma túy loại Heroin theo kết luận giám định số 6528/KL-KTHS ngày 02/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố H là vật cấm tàng trữ, lưu hành Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, Thành phố H.

4. Áp dụng Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Bùi Văn S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST

Số hiệu:73/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về