TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 73/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2023 tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 67/2023/TLST – HS, ngày 12 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2023/QĐXXST - HS, ngày 15 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thị H, sinh năm 1989 tại Bình Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã S, huyện T, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Thợ hớt tóc; trình độ văn hóa (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thiện Đ, sinh năm: 1965 và bà Võ Thị N (đã chết); chồng: Trần Anh K, sinh năm 1988 (đã ly hôn); con có hai người: Lớn nhất sinh năm 2010; nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện T từ ngày 28/7/2023, tạm giam cho đến nay: Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 24/7/2023 Nguyễn Thị H đi một mình đến huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông tên Q (chưa rõ nhân thân lai lịch) mua ma túy đá với số tiền 500.000 đồng. Q đưa cho H 01 gói nylon loại túi zíp bên trong có chứa ma túy đá. Đến chiều ngày 27/7/2023 Nguyễn Thị H đi một mình từ Thành phố Hồ Chí Minh về đến thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận gặp một người tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) là bạn quen biết của H nên H và T vào nhà nghỉ tâm sự với nhau. H thấy T có ma túy đá nên H hỏi mua thì T đưa cho H 01 gói nylon loại túi zíp bên trong có chưa ma túy đá và không nói giá tiền bao nhiêu, lấy ma túy của T xong H cất giữ ma túy mua của T và 02 gói ma túy mua ở Thành phố Hồ Chí Minh đi về nhà ở xã S. Đến khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 28/7/2023 H cầm 03 gói nylon, loại túi zíp có chứa ma túy đi vào nhà Lê Thị Thùy N1 để mượn cân tiểu ly. Khi gặp N1, H hỏi mượn cân tiểu ly, N1 nói “Cái cân e cho người ta rồi” nên H đi về. Một lúc sau N1 gọi điện thoại lại cho H nói “Em mượn được cân rồi, chị vô nhà chở em đi lấy cân” thì H điều khiển xe mô tô biển số 86B7-X đến nhà N1 để chở N1 đi lấy cân. Khi H chở N1 đi đến đoạn đường nhựa nông thôn thuộc thôn D, xã S thì bị lực lượng Công an xã S kiểm tra và phát hiện trong túi đeo của H có 03 gói nylon, loại túi zíp bên trong có chứa tinh thể màu trắng. Quá trình làm việc Nguyễn Thị H khai nhận chất tinh thể màu trắng trong 03 túi nylon là ma túy đá. Công an xã S đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ, niêm phong tang vật ký hiệu M1, M2, M3.
Tại bản cáo trạng số: 65/CT–VKSND-TL, ngày 05/10/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh khẳng định bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị H là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H với mức án từ: 18 tháng đến 24 tháng tù.
Về tang vật: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 03 gói nylon màu trắng, một đầu có khóa kéo cùng 0,2123 gam mẫu 1; 2,4001 gam mẫu M2; 0,5296 gam mẫu M3 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 943, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N2 và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 - Công an tỉnh B - Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô biển số 86B7-X của Nguyễn Thị H.
Bị cáo Nguyễn Thị H không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử.
Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi vi phạm của bị cáo Nguyễn Thị H:
Vào khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 28/7/2023 Lê Thị Thùy N1 điều khiển xe mô tô biển số 86B7-X chở Nguyễn Thị H đi trên đoạn đường nhựa nông thôn thuộc thôn D, xã S, huyện T thì bị lực lượng Công an xã S, huyện T kiểm tra và phát hiện trong túi đeo trên người của Nguyễn Thị H có 03 gói nylon, loại túi zíp bên trong có chứa tinh thể màu trắng.
Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, ngày 28/7/2023 gồm: 01 túi nilon zip màu trắng, một đầu có khóa, có kích thước 03cm x 4cm bên trong có chứa chất rắn màu trắng; 01 túi nilon zip màu trắng, một đầu có khóa, có kích thước 03 cmx3,5cm, bên trong có chứa chất rắn màu trắng; 01 túi nilon zip màu trắng, một đầu có khóa, có kích thước 04cmx4cm, bên trong có chứa chất rắn màu trắng.
Tại kết luận giám định số 943/KL-KTHS, ngày 04/8/2023 của Phòng K1, Công an tỉnh B, kết luận về đối tượng giám định như sau: Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,2378 gam là Methamphetamine; Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 2,4361 gam là Methamphetamine; Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 0,5581 gam là Methamphetamine. Tổng khối lượng của ba mẫu cần giám định là 3,232 gam là M.
Tại phiên tòa, Nguyễn Thị H thừa nhận những vật được niêm phong tại biên bản ngày 28/7/2023 đúng tang vật đã bắt quả tang đối với bị cáo ngày 28/7/2023; các tinh thể màu trắng trong 03 túi nylon là ma túy đá và Nguyễn Thị H thống nhất với kết luận giám định ngày 04/8/2023. Bị cáo thừa nhận tàng trữ ma túy nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.
Như vậy, Nguyễn Thị H là người có năng lực trách nhiệm hình sự; thế nhưng bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 3,232 gam Methamphetamine nhằm sử dụng cho mục đích cá nhân. Hành vi của Nguyễn Thị H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị H không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị H đã thành khẩn khai báo nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Bị cáo có chồng, nhưng đã ly hôn và đang trực tiếp nuôi hai người con. Do đó, cần xem xét áp dụng thêm cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS là phù hợp.
[4] Về vật chứng: Hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh gồm: 03 gói nylon màu trắng, một đầu có khóa kéo cùng 0,2123 gam mẫu 1; 2,4001 gam mẫu M2; 0,5296 gam mẫu M3 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 943 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N2 và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 - Công an tỉnh B. Xét thấy: Đây là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS.
Đối với xe mô tô biển số 86B7-X thuộc quyền sở hữu của Nguyễn Thị H.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều khai nhận vào ngày 24/7 đến ngày 27/7/2023 bị cáo sử dụng xe mô tô này làm phương tiện để đi mua ma túy. Do đó, cần tịch thu, sung công quỹ nhà nước là phù hợp với điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.
[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017):
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H: 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 28/7/2023.
3. Về vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy: 03 gói nylon màu trắng, một đầu có khóa kéo cùng 0,2123 gam mẫu 1; 2,4001 gam mẫu M2; 0,5296 gam mẫu M3 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 943 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N2 và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng K1 - Công an tỉnh B.
- Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô biển số 86B7-X.
(Tất cả tang vật hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/10/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh.
4. Về án phí:
Căn cứ vào: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sơ thẩm, sung công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/11/2023) (đã giải thích quyền kháng cáo).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2023/HS-ST
Số hiệu: | 73/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về