Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 , tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trương Văn Phi L, sinh năm 1996 tại A; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 5, xã B, huyện H, tỉnh A; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn Th, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1964; vợ Nguyễn Minh Gsinh năm 1999; có 02 người con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2021cho đến nay; có mặt.

2. Đào Văn Tr, sinh năm 1989 tại A, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 1, xã Bình T, huyện H, tỉnh A; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn H, sinh năm 1966 và bà Lê Thị Kim E, sinh năm 1967; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 30/9/2011, bị cáo bị Công an huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An xử phạt 1.650.000 đồng về hành vi gây rối trật tự công cộng và cố ý gây thương tích, chấp hành xong vào ngày 28/10/2011;

- Ngày 25/11/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An tuyên xử 01 năm tù về tội Giao cấu với trẻ em, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 03/02/2013;

- Ngày 16/5/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh tuyên xử 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 14/8/2019.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2021 cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng: Ông Đỗ Trần Q và ông Nguyễn Châu D; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trương Văn Phi L và Đào Văn Tr có mối quan hệ là bạn với nhau. L và Tr cùng tạm trú tại khu nhà trọ Nguyễn Thanh M thuộc tổ 2, khu phố Khánh Long, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 28/9/2021, L đi từ phòng trọ số 1 sang phòng trọ số 4 của Tr để chơi. L và Tr ngồi nói chuyện được 10 phút, lúc này L rủ Tr mỗi người hùn 200.000 đồng để mua ma túy về cùng sử dụng thì Tr đồng ý. Tr dùng điện thoại của Tr gọi cho một thanh niên (không rõ lai lịch) là người đã bán ma túy cho Tr nhiều lần trước đó, để hỏi mua ma túy với số tiền 400.000 đồng thì người thanh niên đồng ý. Sau đó, Tr đưa điện thoại của Tr cho L nói chuyện với người thanh niên thỏa thuận địa điểm giao ma túy là đoạn đường ĐT 747B thuộc khu phố Khánh Long, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Sau khi nghe điện thoại xong Tr và L cùng đi bộ ra địa điểm hẹn nhận ma túy. Khi đi gần tới điểm hẹn, thì Tr đứng đầu hẻm gần khu nhà trọ đợi L, còn L cầm điện thoại của Tr đi đến đoạn đường ĐT 747B để gọi cho nam thanh niên đến giao ma túy cho L. Khi gặp người thanh niên, L đưa số tiền 400.000 đồng, người thanh niên ném gói ny lon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng xuống đất, L nhặt lên sau đó cất giấu ma túy vào quần lót đang mặc trên người và đi lại chỗ Tr đang đợi thì bị lực lượng Công an thị xã Tân Uyên phối hợp với Công an phường Tân Phước Khánh tuần tra phát hiện L và Tr có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra L lấy ra một gói ny lon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng và khai nhận là ma túy do L và Tr góp tiền mua để sử dụng. Công an phường Tân Phước Khánh niêm phong gói ny lon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng và mời Tr và L về trụ sở làm việc. Công an phường Tân Phước Khánh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Tr và L, đồng thời thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng đã được niêm phong và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

Công an phường Tân Phước Khánh lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao Trương Văn Phi L và Đào Văn Tr cùng hồ sơ, vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận giám định số 650/MT-PC09 ngày 06/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: 01 (Một) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể trắng là ma tuý, có khối lượng 0,1136 gam, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 71/CT-VKS.TU ngày 24/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trương Văn Phi L và Đào Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ Lật Hình sự xử phạt bị cáo Trương Văn Phi L mức hình phạt từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng đến 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ Lật Hình sự xử phạt bị cáo Đào Văn Tr mức hình phạt từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong ký hiệu 650/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methemphetamine khối lượng còn lại sau giám định; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 1017 màu trắng, số imeil 354482094838606.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không tranh Lận.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp Lật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Quá trình điều tra, lời khai của những người làm chứng ông Đỗ Trần Q và ông Nguyễn Châu D không mâu thuẫn với lời khai của các bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát và các bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt những người này. Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 293 của Bộ Luật Tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo Trương Văn Phi L và Đào Văn Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 28/9/2021, tại khu phố Khánh Long, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Đào Văn Tr và Trương Văn Phi L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine với khối lượng 0,1136 gam nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện và thái độ coi thường pháp luật nên đã cố ý thực hiện. Do đó, cần xử các bị cáo thật nghiêm mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

5 Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo L phạm tội với vai trò đề xuất, rủ rê, trực tiếp đi mua ma túy; bị cáo Tr sử dụng điện thoại di động của mình gọi điện cho đối tượng bán ma tuý để hỏi mua ma tuý, đồng thời giao điện thoại di động cho bị cáo L liên lạc với đối tượng này để hẹn địa điểm giao nhận ma tuý; các bị cáo sử dụng số tiền để mua ma tuý sử dụng là ngang nhau; bị cáo Tr có nhân thân xấu đã từng bị Tòa án xử về tội “Giao cấu với trẻ em” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vì vậy, khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc đến nhân thân, vai trò và tính nguy hiểm của từng bị cáo cho phù hợp.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với số ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án và là chất cấm nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với điện thoại di động Nokia 1017 màu trắng, số imeil 354482094838606, các bị cáo sử dụng liên hệ để mua ma tuý, đây là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với đối tượng nam thanh niên là người bán ma túy cho các bị cáo, do chưa xác định được nhân thân, địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau, là phù hợp.

[11] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trương Văn Phi L và Đào Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự;

- Xử phạt bị cáo Trương Văn Phi L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.

- Xử phạt bị cáo Đào Văn Tr 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/9/2021.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 bì thư đã được niêm phong ký hiệu 650/PC09 bên trong chứa ma túy loại Methemphetamine khối lượng còn lại sau giám định;

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia 1017 màu trắng, số imeil 354482094838606.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Trương Văn Phi L và Đào Văn Tr mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 73/2022/HS-ST

Số hiệu:73/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về