Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2022/HSST ngày 25 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyn Tiến S, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Thôn B, xã A, huyện T, tỉnh Bắc Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Nguyễn Văn T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị X; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPVPHC ngày 14/02/2022 của Công an xã An Dương, huyện T, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Tiến S 1.000.000 đồng (đ) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 38/QĐXPHC ngày 04/8/2014 của Công an huyện T, tỉnh Bắc Giang xử phạt Nguyễn Tiến S 1.500.000 đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2022; hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tiến S là đối tượng nghiện ma túy; khoảng hơn 10 giờ ngày 15/4/2022, S sử dụng số điện thoại 0349.435.140 điện thoại cho một người đàn ông không quen biết có số điện thoại 0362.301.908 mục đích hỏi mua 500.000 đ tiền ma túy Heroine về để sử dụng. Người đàn ông này hẹn gặp S vào lúc 15 giờ cùng ngày 15/4/2022 tại nhà văn hóa thôn T2, xã S, huyện T để giao ma túy.

Khong 15 giờ cùng ngày, S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 98Y5- 6096 một mình từ nhà đến nơi hẹn; khoảng 15 giờ 30 phút S đến khu vực nhà văn hóa thôn T2 thì gặp một người đàn ông không quen biết (có đặc điểm mặc quần ngắn màu đen, áo cộc trắng, cao khoảng 1,65 mét). Qua trao đổi S biết người này là người S đã điện thoại trước đó hẹn gặp để mua ma túy nên S lấy số tiền 500.000 đ từ túi quần ra đưa cho người đàn ông này. Người đàn ông cầm tiền, bảo với S “Để trong ngăn bàn đằng sau nhà văn hóa” và điều khiển xe mô tô đi khỏi khu vực nhà văn hóa thôn T2, S hiểu ý người đàn ông này nói là ma túy đã được để tại vị trí sau nhà văn hóa nên S đi xe mô tô vào khu vực phía sau nhà văn hóa thôn T2, ra vị trí có chiếc bàn và lấy 01 gói giấy màu trắng được buộc bằng dây chun nịt bên trong đựng ma túy Heroine ở trong ngăn bàn; sau đó S cầm gói ma túy ở bên tay trái và điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khi S vừa lái xe mô tô rời khởi vị trí mua ma túy được khoảng 05 m thì bị lực lượng Công an huyện T phối hợp với Công an xã S kiểm tra và bắt quả tang, do sợ hãi nên S đã thả gói ma túy vừa mua được từ tay trái xuống mặt sân nhà văn hóa thôn T2.

Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bao gồm:

- Thu giữ tại sân bê tông thuộc nhà văn hóa thôn T2, xã S, huyện T 01 (một) gói giấy màu trắng được buộc lại bằng dây chun nịt, bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa có viền màu đỏ được buộc lại bằng chun nịt, bên trong túi nilon đựng 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, bên trong túi nilon đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy Heroine, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT”.

- Thu giữ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xám đen có biển kiểm soát 98Y5- 6096, không xác định được số khung, số máy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu đen, mặt sau bị vỡ có IMEI1: 868954045891289 có lắp thẻ sim số 0349435140 và thẻ sim số 0964234595, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- Số tiền 995.000 đ (chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng) (BL 51-54; 144- 148).

Sau khi bắt quả tang, Cơ quan điều tra tiến hành test nhanh chất ma túy trong mẫu nước tiểu của Nguyễn Tiến S, kết quả S dương tính với ma túy Heroine.

Cùng ngày 15/4/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T ra Lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Nguyễn Tiến S. Quá trình khám xét khẩn cấp thu giữ các vật chứng sau: Thu giữ trong ống nhựa được gắn ở chân bàn đặt cạnh giường ngủ của Nguyễn Tiến S có 01 (một) túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa viền màu đỏ bên trong có: 05 (năm) túi nilon bên trong mỗi túi đều bám dính chất màu trắng nghi là ma túy; 02 (hai) túi nilon bên trong không đựng gì; 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa bên trong đựng 04 (bốn) túi nilon trong mỗi túi đều bám dính chất màu trắng nghi là ma túy (BL 65- 66).

Tại Kết luận giám định số 592/KL-KTHS ngày 18/4/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

+ Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) gói giấy màu trắng được buộc lại bằng dây chun nịt, bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu đỏ được buộc lại bằng dây chun nịt: Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa là ma túy, có khối lượng 3,367 gam, loại Heroine.

+ Trong 01 (một) phong bì ký hiệu “KX” đã được niêm phong gửi giám định: Trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu đỏ: Chất màu trắng bám dính trong 05 túi nilon đều là ma túy, loại Heroine, không xác định được khối lượng mẫu; Chất màu trắng bám dính trong 04 (bốn) túi nilon (đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa) đều là ma túy, loại Heroine, không xác định được khối lượng mẫu (BL 20- 21).

Quá trình điều tra S khai về nguồn gốc các túi nilon thu giữ khi khám xét như sau: Khoảng thời gian đầu tháng 4/2022 (S không nhớ ngày cụ thể), S đi xe bus một mình đến khu vực đầu cầu sắt thuộc phường M, thành phố BG mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến khu vực này S gặp một người đàn ông không quen biết (do S không để ý nên không nhớ đặc điểm của người đàn ông này). Qua trao đổi nói chuyện S biết người này có bán ma túy nên hỏi mua 1.000.000 đ ma túy Heroine, người này cầm tiền rồi đưa cho S các túi nilon chứa ma túy, mua được ma túy S mang về nhà sử dụng dần, đến tối ngày 14/4/2022, S sử dụng hết số ma túy đã mua được ở thành phố B. Khi sử dụng hết ma túy, S để các túi nilon đựng ma túy vào ống nhựa được gắn ở chân bàn đặt cạnh giường ngủ thì bị lực lượng Công an huyện T khám xét thu giữ.

Đi với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu đen, mặt sau bị vỡ có IMEI1: 868954045891289 có lắp thẻ sim số 0349.435.140 và thẻ sim số 0964.234.595, điện thoại cũ đã qua sử dụng là điện thoại của S sử dụng để liên lạc mua ma túy vào ngày 15/4/2022. Số tiền 995.000 đ là tài sản cá nhân của S không liên quan đến hành vi phạm tội. Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xám đen, biển kiểm soát 98Y5- 6096; quá trình điều tra đã xác định được dãy số máy bị tẩy xóa, số nguyên thủy là 5C6H-1?9442 (? Có thể là 0, 3, 5, 6, 8 hoặc 9); Dãy số khung bị tẩy xóa, đóng đục lại, số nguyên thủy là RLCS5C6H0FY1???32 (? không xác định). S khai nhận chiếc xe mô tô này S mượn của người đàn ông tên L nhà ở khu vực C, thị trấn NN, huyện T. Cơ quan điều tra tiến hành xác mịnh tại Công an thị trấn NN nhưng không xác định được người tên L này là ai. Cơ quan điều tra đã tiến hành tra cứu biển kiểm soát 98Y5- 6096 xác định là biển của xe mô tô nhãn hiệu PIAGGIO, số loại LIBERTY có số máy M389M2004599 và số khung 6710000032898 của Dương Phương A có địa chỉ số 6, đường N, phường L, Bắc Giang. Qua xác minh tại phường L, thành phố B địa chỉ số 6, đường N không thuộc địa giới hành chính của phường L. Xác minh tại phường TP, thành phố B địa chỉ số 6, đường N thuộc phường TP, tuy nhiên không xác định Dương Phương A là ai, ở đâu. Do vậy, Cơ quan điều tra đã tách toàn bộ phần tài liệu liên quan đến chiếc xe mô tô và biển kiểm soát 98Y5- 6096 để tiếp tục điều tra xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi với số điện thoại 0362.301.908 mà Nguyễn Tiến S khai nhận đã gọi điện để hỏi mua ma túy, là do S xin của một người không quen biết vào khoảng thời gian tháng 11/2021 khi người này đang đứng nói chuyện với Dương Văn T3- sinh năm 1986, trú tại thôn Giếng, xã S, huyện T. Làm việc với Dương Văn T3 trình bày vào khoảng tháng 11/2021 thì T3 có gặp S, lúc đó Tuy đang nói chuyện với một người đàn ông lạ mặt thì S hỏi xin số điện thoại của người này, T3 cũng không biết người này là ai, ở đâu nên Cơ quan điều tra Công an huyện T không có căn cứ để xác minh làm rõ đối tượng này để xem xét, xử lý.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho S vào ngày 15/4/2022, có số điện thoại 0362.301.908, do S không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không xác định được người này là ai. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ điện tín đối với số điện thoại 0362.301.908, kết quả tra cứu xác định số điện thoại 0362.301.908 đăng ký chính chủ tên Dương Đức K, sinh năm 1994, trú tại thôn T2, xã S, huyện T, tỉnh Bắc Giang. Tiến hành cho S nhận dạng Dương Đức K để xác định K có phải là người bán ma túy cho S không nhưng S không nhận ra. Cơ quan điều tra đấu tranh với K, K khai nhận đã từng đăng ký sử dụng số thuê bao 0362.301.908 nhưng đã bị mất sim từ lâu và không còn sử dụng, K không bán ma túy cho S nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý Dương Văn K.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho S tại khu vực đầu cầu thuộc phường M, thành phố BG vào thời gian 4/2022 do S không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra Công an huyện T không có căn cứ để xác minh, làm rõ đối với người đàn ông này.

Đi với các túi nilon bám dính chất màu trắng là ma túy Heroine do không xác định được khối lượng ma túy trong các gói nilon này nên không có căn cứ xem xét xử lý đối với Nguyễn Tiến S. Nguyễn Tiến S có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” nên ngày 12/7/2022, Trưởng Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng đối với Nguyễn Tiến S.

Vt chứng của vụ án: Số ma túy được hoàn lại sau giám định và chiếc điện thoại OPPO có số IMEI1: 869125029606279, số IMEI2: 869125029606261 được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện T để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản cáo trạng số: 61/CT-VKS ngày 22/7/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã trình bày luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tiến S từ 02 năm 08 tháng đến 02 năm 10 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra, còn đề cập đường lối xử lý về vật chứng và tiền án phí.

Bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người đúng tội, bị cáo không bị oan và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm. Có đủ cơ sở kết luận:

Khong 10 giờ 00 phút ngày 15/4/2022, tại khu vực nhà văn hóa thôn T2, xã S, huyện T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T bắt quả tang Nguyễn Tiến S có hành vi tàng trữ trái phép 3.367 gam ma túy Heroin, mục đích để sử dụng. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

Do vậy, đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Tiến S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. [4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Do vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[6] Ngoài hình phạt chính lẽ ra cần áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo, song xét thấy gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên Hội đồng xét xử miễn không áp dụng. [7] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu đen, mặt sau bị vỡ có IMEI1: 868954045891289 có lắp thẻ sim số 0349435140 và thẻ sim số 0964234595, điện thoại cũ đã qua sử dụng là điện thoại của S sử dụng để liên lạc mua ma túy, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 995.000 đ là tài sản cá nhân của S không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại bị cáo.

- Số ma túy bọc trong 01 phong bì thư có ký hiệu “QT” được hoàn lại sau giám định không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ.

- 01 phòng bì thư có ký hiệu “KX” bên trong có 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu dỏ đựng: 05 túi nilon (mẫu chất màu trắng bám dính trong các túi đã được sử dụng hết trong quá trình giám định); 02 túi nilon bên trong không đựng gì; 04 túi nilon được đựng trong 01 túi nilon màu trắng, một đầu có khóa nhựa (mẫu chất màu trắng bám dính trong các túi đã được sử dụng hết trong quá trình giám định) là tài sản không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo, do đó được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; các điều 89, 106, 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tiến S 02 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2022.

2. Về việc xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu huỷ: 01 (một) phong bì ký hiệu “QT” đã được niêm phong, trong 01 (một) gói giấy màu trắng được buộc lại bằng dây chun nịt, bên trong có 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu đỏ được buộc lại bằng dây chun nịt đựng: Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa là ma túy, có khối lượng 3,081 gam, loại Heroine được hoàn lại sau giám định; 01 phòng bì thư có ký hiệu “KX” bên trong có 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa, viền màu dỏ đựng: 05 túi nilon (mẫu chất màu trắng bám dính trong các túi đã được sử dụng hết trong quá trình giám định); 02 túi nilon bên trong không đựng gì; 04 túi nilon được đựng trong 01 túi nilon màu trắng, một đầu có khóa nhựa.

Tch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu đen, mặt sau bị vỡ có IMEI1: 868954045891289 có lắp thẻ sim số 0349435140 và thẻ sim số 0964234595.

Trả lại bị cáo Nguyễn Tiến S 995.000 đồng.

(Vật chứng của vụ án như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.) 3. Về án phí: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Tiến S.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST

Số hiệu:72/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về