Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 72/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại Ủy ban nhân dân xã Vũ Chính, thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2022/HSST ngày 10 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh ngày 25/4/1990 tại T. Nơi cư trú: Thôn A, xã L, huyện K, tỉnh T. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn L1 và bà Lê Thị L2; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12/5/2011 bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh T khởi tố về tội Cố ý gây thương tích; ngày 05/7/2011 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can số 06 đối với Nguyễn Văn H (Do bị hại rút yêu cầu khởi tố). Ngày 25/7/2011 Công an huyện K, tỉnh T ra Quyết định xử phạt hành chính số 106, xử phạt Nguyễn Văn H 1.000.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác. Ngày 05/8/2011 Nguyễn Văn H đã nộp 1.000.000 đồng. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/3/2022 đến ngày 21/3/2022 chuyển tạm giam đến nay.

* Người chứng kiến:

1. Anh Dương Ngọc H1, sinh năm 1985; nơi cư trú: Số nhà 10, tổ 5, phường B, thành phố T, tỉnh T.

2. Anh Lê Thanh T1, sinh năm 1970; nơi cư trú: Số nhà 08, tổ 18, phường Q, thành phố T, tỉnh T.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo, vắng mặt anh T1, anh H1).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 18/3/2022 Nguyễn Văn H điều khiển xe máy nhãn hiệu SUZUKI- Smash màu xanh, biển kiểm soát 17K4 - 2017 từ nhà đến khu vực ngõ 02, đường H2, tổ 04, phường Q, thành phố T, tỉnh T với mục đích mua ma túy về sử dụng, tại đây H gặp và mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng rồi đi tìm chỗ để sử dụng. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày H đi đến khu vực ngõ 12, đường H2, tổ 11, phường Q, thành phố T, tổ công tác Công an thành phố Thái Bình yêu cầu H dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của anh Dương Ngọc H1 và anh Lê Thanh T1, H tự giác giao nộp cho tổ công tác 02 gói được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, kiểm tra bên trong đều chứa chất bột dạng cục, H khai là heroine của H mua để sử dụng. Tổ công tác quản lý của H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ, 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI - Smash, màu xanh, biển kiểm soát 17K4 -2017 và số tiền 150.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 83/KLGĐMT-PC09 ngày 21/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu vật quản lý của Nguyễn Văn H gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2212 gam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bản cáo trạng số 81/CT-VKSTPTB ngày 09/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/3/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định. Trả lại bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ và số tiền 150.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án. Chấp nhận việc cơ quan Điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị L3 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI- Smash, màu xanh, biển kiểm soát 17K4 -2017.

* Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không bào chữa và không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nên các hành vi, quyết định tố tụng trong vụ án này là hợp pháp.

[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được chứng minh bằng:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Biên bản niêm phong vật chứng. Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ. Kết luận giám định số 83/KLGĐMT- PC09 ngày 21/3/2022. Biên bản ghi lời khai của người chứng kiến.

Các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 18/3/2022, tại khu vực ngõ 12, đường H2, tổ 11, phường Q, thành phố T, tỉnh T, Nguyễn Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 0,2212 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Như vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

[3] Về tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu, bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có thời gian tham gia quân đội, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cần thiết phải xử phạt mức hình phạt nghiêm minh với hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xem xét khi quyết định hình phạt.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Số ma túy Heroine còn lại sau giám định là 0,1865 gam thu giữ của bị cáo, đây là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ và số tiền 150.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.

- Xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu SUZUKI- Smash, màu xanh, biển kiểm soát 17K4 -2017 là xe của chị Nguyễn Thị L3 là chị gái của bị cáo, chị L3 cho bị cáo mượn xe nhưng không biết bị cáo sử dụng chiếc xe đi mua ma túy, ngày 14/4/2022 cơ quan Điều tra đã trả lại cho chị L3 chiếc xe là đúng quy định.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua Heroine của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ tại khu ngõ 02, đường H2, tổ 4, phường Q, thành phố T, tỉnh T, nên cơ quan Điều tra Công an thành phố Thái Bình không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106; Điều 135; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/3/2022.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định là 0,1865 gam trong phong bì niêm phong số 83/KLGĐMT- PC09 ngày 21/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

- Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 màu đen đã cũ và số tiền 150.000 đồng.

(Vật chứng Công an thành phố Thái Bình đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình ngày 09/6/2022).

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 21/6/2022./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 72/2022/HS-ST

Số hiệu:72/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về