Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 38/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2022/QĐXXST-HS ngày 03/3/2022 đối với các bị cáo:

1. Trần Giang T , sinh năm 1998 tại tỉnh A; thường trú: Ấp P, xã T, huyện P, tỉnh A; tạm trú: 138, tổ 14, khu phố H, phường B, thành phố D, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Trần Việt N, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1974; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13/11/2021 cho đến nay, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Nguyễn Hoàng K, sinh năm 2000 tại tỉnh Đ; thường trú: Ấp T, xã H, huyện T, tỉnh Đ; tạm trú: 327/2, khu phố 1B, phường A, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; con ông Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1976 và bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1975; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13/11/2021 cho đến nay, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Việt N, sinh năm 1978; thường trú: Ấp P, xã T, huyện P, tỉnh A, vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn P, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 12/11/2021, Trần Giang T có nhu cầu sử dụng ma túy nên điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave, màu xanh, biển kiểm soát 51P1-9757 đi đến chỗ ở của Nguyễn Hoàng K tại số 327/2, khu phố 1B, phường A, thành phố T, tỉnh B để rủ Nguyễn Hoàng K góp 250.000 đồng mua ma túy đá về sử dụng thì Nguyễn Hoàng K đồng ý. Sau đó, Trần Giang T chở Nguyễn Hoàng K đến khu vực Công ty gỗ Minh Dương thuộc khu phố 1B, phường A, thành phố T, tỉnh B để gặp người đàn ông tên Vũ (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 500.000 đồng ma túy đá thì được tên Vũ đưa cho 02 gói nylon miệng hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Trần Giang T cất vào túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Hoàng K đi tìm nơi để sử dụng. Khi đến trước nhà số 138, tổ 1, khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh B thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - ma túy Công an thành phố D phối hợp cùng với Công an phường T kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của Trần Giang T có 02 gói nylon miệng hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Trần Giang T và Nguyễn Hoàng K khai nhận là ma túy đá. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ tang vật và lập biên bản phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 02 gói nylon miệng hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 51P1-9757, số khung: RMHWCHBUM5T001663, số máy: VTTHTJL1P52FMH-C04336.

* Căn cứ Kết luận giám định số 747/MT-PC09 ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1135 gam (M1) và 0,1734 gam (M2), loại Methamphetamine.

* Tại cáo trạng số 67/CT-VKS-DA ngày 21 tháng 02 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng K và Trần Giang T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K mức án từ 14 đến 16 tháng tù; bị cáo Trần Giang T mức án từ 16 đến 18 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong bên trong chứa ma túy có khối lượng: 0,0651 gam (M1) và 0,1208 gam (M2), loại Methamphetamine, còn lại sau giám định.

Đối với 01 xe mô tô biển số 51P1-9757, số khung:

RMHWCHBUM5T001663, số máy: VTTHTJL1P52FMH-C04336 của ông Trần Việt N xác định mua không giấy tờ của người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch. Qua quá trình xác minh không xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục xác minh chủ sở hữu, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông tên Vũ bán ma túy cho các bị cáo hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Trong quá trình điều tra các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt các bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Ngày 12/11/2021 tại trước nhà số 138, tổ 1, khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh B các bị cáo Nguyễn Hoàng K và Trần Giang T có hành vi cất giấu 0,1135 gam (M1) và 0,1734 gam (M2) ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Xét, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với chính lời khai của các bị cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Bản kết luận giám định số 747/MT-PC09 ngày 17 tháng 11 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh B. Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Giang T và Nguyễn Hoàng K mua ma túy sau đó cất giấu, nhằm mục đích để sử dụng với khối lượng 0,2869 gam, loại Methamphetamine đã đủ yếu tố cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 67/CT-VKS-DA ngày 21 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo là người lao động, đều là người nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không có sự phân công vai trò cụ thể nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành.

Xét vai trò trong đồng phạm: Bị cáo Trần Giang T là người đề xuất và sử dụng phương tiện, trực tiếp mua ma túy đóng vai trò tích cực hơn bị cáo Nguyễn Hoàng K nên khi quyết định hình phạt bị cáo Trần Giang T phải chịu mức án cao hơn bị cáo Nguyễn Hoàng K.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Xét 01 bì thư được niêm phong bên trong chứa ma túy đá có khối lượng: 0,0651 gam (M1) và 0,1208 gam (M2), loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định, là chất nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

-Xét 01 xe mô tô biển số 51P1-9757, số khung: RMHWCHBUM5T001663, số máy: VTTHTJL1P52FMH-C04336 do ông Trần Việt N mua không có giấy tờ, hiện không xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục xác minh chủ sở hữu, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

[9] Đối với người đàn ông tên Vũ bán ma túy cho các bị cáo hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D đang tiếp tục điều tra, xử lý sau.

[10] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D về việc áp dụng hình phạt, xử lý vật chứng là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Giang T và Nguyễn Hoàng K phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Giang T 01 (một) năm 04 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2021.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01(một) bì thư được niêm phong bên trong chứa ma túy đá có khối lượng: 0,0651 gam (M1) và 0,1208 gam (M2), loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/02/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D, tỉnh B).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Trần Giang T và Nguyễn Hoàng K mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST

Số hiệu:72/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về