Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 71/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 71/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 08 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2021/TLST- HS ngày 28 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 08 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Đỗ Văn A (tên gọi khác: không); sinh năm 1994 tại tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: xóm 8B, xã C, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo. Quốc tịch:

Việt Nam. Con ông Đỗ Văn Q và bà Hoàng Thị N1. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị T và có một con sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/4/2021 đến ngày 23/4/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

2. Ninh Văn N (tên gọi khác: không); sinh năm 1990 tại tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Ninh Văn B (đã chết) và bà Phạm Thị H. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/4/2021 đến ngày 23/4/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị T - sinh năm 1999; trú tại: Xóm 8B, xã C, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Dương Văn H, Anh Đỗ Văn C; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đỗ Văn A và Ninh Văn N là những đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 19/4/2021, A điều khiển xe mô tô BKS 35K1-170.64 từ nhà đến khu vực xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình tìm mua ma túy về sử dụng. Trên đường đi A dùng điện thoại di động nhãn hiệu Samsung lắp sim số 0966644752 gọi điện đến số sim 0973794752 lắp trong điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 của N rủ N đi cùng. Do bận việc nên N bảo A cứ đi mua ma túy, nếu mua được thì chia cho N một ít để sử dụng. A đồng ý, sau đó A đến khu vực trước cổng Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mastervina (tên gọi khác là công ty G) có trụ sở tại xóm 12, xã Đ, huyện K tìm và mua được của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy trắng có chữ in, bên trong có chất bột dạng cục màu trắng với giá 200.000đồng. Sau đó, A gọi điện và nhắn tin thông báo cho N, N bảo A mang gói ma túy trên đến gần nhà cho N. Đến khoảng 10 giờ 50 phút cùng ngày, A điều khiển xe mô tô mang theo gói ma túy đến khu vực đường dong thuộc xóm 6, xã K, huyện K, N đi bộ đến gặp A. Khi gặp nhau, A đưa gói ma túy cho N và nói “hàng đây anh cầm lấy chia ra anh em cùng chơi”, Nam nhận gói ma túy từ A. Cùng lúc này Tổ công tác Công an huyện K kiểm tra hành chính phát hiện trên tay phải của N đang cầm 01 gói nhỏ, N tự giác giao nộp và khai nhận đó là gói ma túy do A vừa mang đến đưa cho N để cho cả hai cùng sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản người phạm tội tự thú đối với Đỗ Văn A và Ninh Văn N. Tại chỗ thu giữ của anh Ninh Văn N 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy trắng có in chữ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen;

01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc vỏ kẹo cao su. Thu giữ của Đỗ Văn A 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter mang BKS 35K1-170.64; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng.

Kiểm tra gói nhỏ thu giữ của Ninh Văn N bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định khối lượng là 0,21 gam, ký hiệu C gửi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 323/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi gửi giám định ký hiệu C có khối lượng 0,2046 gam là ma túy, loại Heroine.” Quá trình điều tra, Đỗ Văn A và Ninh Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 72/CT-VKS - KS ngày 27/07/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình truy tố các bị cáo Đỗ Văn A và Ninh Văn N về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố các bị cáo Đỗ Văn A và Ninh Văn N phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn A từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 19 tháng 04 năm 2021 Xử phạt bị cáo Ninh Văn N từ 12 (mười hai) tháng tù đến 15 ( mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo ngày 19 tháng 04 năm 2021 Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của vụ án bao gồm:

+ 01 phong bì niêm phong ghi số 323/KLGĐ-PC09-MT, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định kí hiệu C có khối lượng 0,1638 gam là ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ bao gói trong gói niêm phong trên giáp lai có chữ kí của đại diện bên giao, bên nhận đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Ninh Bình.

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ giấy gói ngoài gói nhỏ là là giấy trắng có chữ in; phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ.

+ 01 vỏ phong bì đã được mở niêm phong kí hiệu D1.

+ 01 vỏ phong bì đã được mở niêm phong kí hiệu D2 + 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc vỏ kẹo cao su màu trắng.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng thu giữ của An và Nam.

Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn A 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS 35K1-170.64 nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như nội dung bản cáo trạng. Các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai tại phiên toà của các bị cáo phù hợp với nhau và như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với biên bản về việc thu giữ và niêm phong vật chứng lập hồi 11 giờ ngày 19 tháng 4 năm 2021 và phù hợp với Biên bản về việc người phạm tội tự thú lập hồi 12 giờ 15 phút UBND xã K; phù hợp kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những tài liệu, chứng cứ nêu trên đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ 50 phút ngày 19/4/2021, tại khu vực đường dong thuộc xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình, Ninh Văn N có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,2046 gam Heroine để sử dụng. Đỗ Văn A có hành vi mua số Heroine trên với giá 200.000 đồng sau đó đưa cho Ninh Văn N để cất giữ và cùng sử dụng chung.

Heroin là chất ma túy có số thứ tự 09 thuộc Bảng danh mục I ban hành kèm theo Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ.

[2] Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ. Hành vi cất giữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,2046 gam là loại Heroine của bị cáo N và A đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”

[ 3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý, sản xuất kinh doanh một số loại hàng cấm, nguy hiểm cho xã hội. Mặt khác hành vi của các bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội và việc quản lý kinh tế tại địa phương. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ ma túy là mặt hàng nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng và mua bán nhưng vì nhu cầu sử dụng cho bản thân mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Do đó cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Khi mới nhìn thấy lực lượng Công an kiểm sát, tuần tra khu vực để đảm bảo an ninh trật tự tại địa bàn và các bị cáo chưa bị phát hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng cả hai đã tự thú ra việc các bị cáo đang tàng trữ trái phép chất ma túy để chuẩn bị tìm nơi sử dụng chung. Như vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và người phạm tội tự thú theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đây và vụ án có hai bị cáo tham gia nhưng là vụ án đồng phạm giản đơn mặc dù khi lập biên bản về việc người phạm tội tự thú thì gói ma túy đang do bị cáo cáo Nam cầm trên tay phải của mình, nhưng nguồn gốc gói ma túy trước đó do bị cáo Đỗ Văn A vừa đi mua về với mục đích chia cho N để cả hai tìm chỗ sử dụng chung. Do vậy trong vụ án này bị cáo A giữ vai trò chính và vai trò trách nhiệm của bị cáo A là cao hơn bị cáo N.

[6] Căn cứ quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cai nghiện, học tập thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội để phục vụ cho nhu cầu nghiện ma túy của bản thân, mặt khác qua xác minh tại chính quyền địa phương các bị cáo không có tài sản riêng và cũng không có công ăn việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy: Đối với người đàn ông bán ma túy cho Đỗ Văn A tại khu vực cổng công ty G thuộc xóm 12, xã Đ, huyện K, A không biết tên, tuổi, địa chỉ người này, nếu gặp mặt cũng không nhận dạng được nên Cơ quan CSĐT Công an huyện K không đủ căn cứ để điều tra, xác minh.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS xử lý như sau:

Toàn bộ số ma túy hoàn trả sau khi giám định có khối lượng C = 0,1638 gam Heroin cùng với toàn bộ vỏ bao niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì ghi số 323/KLGĐ – PC09 - MT cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ giấy gói ngoài gói nhỏ là là giấy trắng có chữ in, phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ; 01 vỏ phong bì đã được mở niêm phong kí hiệu D1; 01 vỏ phong bì đã được mở niêm phong kí hiệu D2; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc vỏ kẹo cao su màu trắng. Cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu vàng đồng thu giữ của A và N do các bị cáo liên lạc với nhau để đi mua ma túy về sử dụng, liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS 35K1-170.64 của Đỗ Văn A không liên quan đến việc phạm tội nay trả lại cho bị cáo Đỗ Văn A nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

[8] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn A và Ninh Văn N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với Đỗ Văn A và Ninh Văn N.

1. Tuyên bố các bị cáo Đỗ Văn A và Ninh Văn N phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn A 17 (mười bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 19/4/2021 Xử phạt bị cáo Ninh Văn N 15 ( mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 19/4/2021.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy những vật chứng của vụ án gồm:

+ Toàn bộ số ma túy hoàn trả sau khi giám định có khối lượng C = 0,1638 gam Heroin cùng với toàn bộ vỏ bao niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì ghi số 323/KLGĐ – PC09 – MT.

+ 01 phong bì niêm phong bên trong có: 01 vỏ giấy gói ngoài gói nhỏ là là giấy trắng có chữ in, phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ; 01 vỏ phong bì đã được mở niêm phong kí hiệu D1; 01 vỏ phong bì đã được mở niêm phong kí hiệu D2; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc vỏ kẹo cao su màu trắng.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng thu giữ của An và Nam.

Trả lại cho bị cáo Đỗ Văn A 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS 35K1-170.64 nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

(Chi tiết vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/07/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K và Chi cục thi hành án dân sự huyện K).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Đỗ Văn A và Ninh Văn N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ( 20/08/2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 71/2021/HS-ST

Số hiệu:71/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về