Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 70/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/9/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 69/2023/TLST-HS ngày 07/9/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2023/QĐXXST-HS ngày 11/9/2023 đối với bị cáo: Thào A C, tên gọi khác: Thào Sông C; sinh ngày 01/01/1967 tại huyện B, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản H, xã L, huyện S, tỉnh Sơn La; số định danh cá nhân: 014067xxxxxx; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: Học lớp xóa mù chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thào A S và bà Giàng Thị D (đều đã chết); có vợ là Mùa Thị P và 05 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/6/2023 cho đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lường Thị T, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ ngày 29/6/2022, tổ công tác Công an xã L và Đồn Biên phòng L làm nhiệm vụ tại khu vực bản H, xã L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, phát hiện và bắt quả tang Thào A C về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ là 02 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa chất nhựa thực vật màu nâu đen; 01 bộ bàn đèn tự chế dùng để hút thuốc phiện.

Ngày 30/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp Cộp đã bóc mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng. Kết quả cân tịnh: Cân tách bì toàn bộ cục nhựa thực vật màu nâu đen trong gói nilon màu hồng thứ nhất có tổng khối lượng 2,91 gam, trích 0,69 gam gửi giám định, ký hiệu C, còn lại 2,22 gam lưu kho, ký hiệu C1. Cân tách bì toàn bộ cục nhựa thực vật màu nâu đen trong gói nilon màu hồng thứ hai có tổng khối lượng 2,59 gam, trích 1,20 gam gửi giám định, ký hiệu D, còn lại 1,39 gam lưu kho, ký hiệu D1.

Kết luận giám định số 1686/KL-KTHS ngày 03/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C,D là ma túy; Loại thuốc phiện (Nhựa phuốc phiện); khối lượng của mẫu gửi giám định là C=0,69 gam; D=1,20 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 5,5 gam; loại thuốc phiện (nhựa Thuốc phiện).

Trong quá trình điều tra, Thào A C khai nhận: Ngày 20/6/2023, Thào A C một mình đi bộ từ nhà đến khu vực biên giới thuộc bản H tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến nơi, C gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết. C đã chủ động hỏi người đàn ông đó có thuốc phiện bán không, người đàn ông đó trả lời có. C đưa số tiền 400.000 đồng cho người đàn ông đó. Nhận được tiền người đàn ông đi khoảng 15 phút rồi quay lại đưa cho C 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa thuốc phiện. C mang thuốc phiện về nhà chia thành 02 gói nhỏ cất giấu trên đầu giường ngủ của mình không cho ai biết để sử dụng. Đến khoảng 17 giờ 45 phút ngày 29/6/2023 Thào A C lấy số thuốc phiện trên cùng bộ bàn đèn ra chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã L phối hợp với Đồn Biên phòng L đến kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bản Cáo trạng số 50/CT-VKSSC ngày 07/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Thào A C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo khai nghiện ma túy từ đầu năm 2023 và thừa nhận hành vi như nội dung Cáo trạng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Thào A C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 14 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo, phong bì đựng vật chứng, 01 bộ bàn đèn tự chế. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, do bị cáo phạm tội lần đầu, thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhiều thành tích công tác. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù. Kiểm sát viên giữ nguyên ý kiến luận tội. Ý kiến của bị cáo: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và lời bào chữa của người bào chữa và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 29/6/2023, bị cáo Thào A C bị bắt quả tang tại nhà ở của bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép 5,5 gam thuốc phiện để sử dụng cho bản thân. Bị cáo khai nguồn gốc thuốc phiện là mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại khu vực biên giới giáp với nước CHDCND Lào thuộc bản H với giá 400.000 đồng từ ngày 20/6/2023. Lời khai của bị cáo là thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ, sử dụng thuốc phiện là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện thuốc phiện nên bị cáo vẫn thực hiện. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo đã về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về đối tượng có liên quan, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh. Do vậy không có cơ sở để điều tra, xử lý và bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với khối lượng ma túy bị phát hiện bắt giữ.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người nghiện ma túy. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội và ăn năn hối cải về hành vi của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình công tác trước đây, bị cáo hai lần được Ủy ban nhân dân huyện Sông Mã tặng giấy khen (năm 1999 và năm 2003), một lần được Ủy ban nhân dân huyện Sốp Cộp tặng giấy khen (năm 2005), Viện kiểm sát nhân dân huyện xác định đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[6] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là dân tộc thiểu số, điều kiện kinh tế khó khăn do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: 3,35 gam thuốc phiện còn lại sau khi trừ mẫu giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy. Một bộ bàn đèn tự chế là công cụ bị cáo dùng để hút thuốc phiện, cần tịch thu tiêu hủy. Phong bì thư đựng vật chứng, túi nilon màu đựng vật chứng là vật không còn giá trị sử dụng, cần tiêu hủy.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Thào A C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý; xử phạt bị cáo Thào A C 14 (mười bốn) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/6/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp đã được niêm phong dán kín. Một mặt phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ: Thào A C - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 29/6/2023 tại khu vực bản H, xã L, huyện S, tỉnh Sơn La. Bên trong phong bì có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 02 mảnh nilon màu hồng đựng ma túy ban đầu; 01 túi nilon màu trắng có chứa 01 cục nhựa thực vật màu nâu đen có tổng khối lượng 2,22 gam, ký hiệu C1; 01 túi nilon màu trắng có chứa 01 cục nhựa thực vật màu nâu đen có tổng khối lượng 1,39 gam, ký hiệu D1”.

- 01 bộ bàn đèn tự chế dùng để hút thuốc phiện, đã qua sử dụng.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Thào A C.

4. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 22/9/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2023/HS-ST

Số hiệu:70/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về