Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 70/2022/HS-ST NGÀY 28/10/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 10 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 84/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Đoàn Chí M, sinh ngày 20 tháng 7 năm 1977, tại thành phố Hồ Chí M. Nơi thường trú: Nguyễn Công T, phường 19, quận Bình T, thành phố Hồ Chí M; Nơi ở hiện nay: Không có nơi ở ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Đoàn H, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị Tinh S, sinh năm 1956; Anh chị em ruột: có 03 người, lớn nhất là bị cáo và nhỏ nhất sinh năm 1989; tiền án: 05 lần, năm 1996 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí M xử phạt 02 năm tù về tội Cướp giật tài sản, xử phạt 02 năm tù về tội Trốn khỏi nơi giam, giữ; năm 2002 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí M xử phạt 04 năm tù về tội Cướp giật tài sản; năm 2007 bị Tòa án nhân dân Quận G, TP. Hồ Chí M xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội Cướp giật tài sản; năm 2013 bị Tòa án nhân dân Quận B, TP. Hồ Chí M xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong bản án vào ngày 05/02/2021, chưa được xóa án tích; tiền sự: không; bị cáo có nhân thân xấu; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/5/2022 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Ông Đoàn H, sinh năm 1956 (có măt)

Nơi cư trú: khóm A, phường B, thành phố T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên vào khoảng 11 giờ ngày 29/5/2022, bị cáo Đoàn Chí M dùng điện thoại cá nhân liên lạc với một người đàn ông tên Xuyến khoảng 35 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) hỏi mua ma túy đá (Methamphetamine) để sử dụng. Khoảng 30 phút sau, X gọi điện lại và chỉ dẫn bị cáo đến đoạn đường nhựa thuộc thị trấn Châu T, huyện Châu T, tỉnh Trà V để nhận ma túy. Sau khi thỏa thuận xong, bị cáo điều khiển xe hiệu Dylan 150 biển số 51S8-X từ quán cà phê Nguyên 2 thuộc phường 2 thành phố T đến địa điểm đã hẹn với X. Tại đây, bị cáo gặp và hỏi mua từ X 05 bịch ma túy đá với giá 850.000 đồng, X nhận tiền và giao ma túy cho bị cáo, sau đó rời đi. Bị cáo sau khi mua được ma túy đã tìm nơi vắng vẻ, lấy một bịch ma túy nhét vào bên trong chiếc dép bên phải bị cáo đang mang để cất giấu, 04 bịch ma túy còn lại bị cáo cất giấu vào trong túi nylon màu đen treo ở phía trước cổ xe bị cáo đang điều khiển. Sau khi cất giấu số ma túy vừa mua được, bị cáo tiếp tục điều khiển xe về hướng phường 6 thành phố T, trong lúc đang dừng xe trước nhà số X, đường Đ, khóm A, phường B, thành phố T để mua nước uống thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện, tạm giữ cùng tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 301/KL-KTHS ngày 30/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:

+ Tinh thể rắn màu trắng chứa trong 04 (bốn) bịch nylon được niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định đều là ma túy; loại: Methamphetamine; tổng khối lượng: 0,7519 gam.

+ Tinh thể rắn màu trắng chứa trong 01(một) bịch nylon được niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 0,0457 gam.

Kết quả kiểm tra chất ma túy trong cơ thể, bị cáo dương tính với ma túy Methamphetamine và thừa nhận có sử dụng trái phép chất ma túy.

Kết quả xác minh lý lịch nhân thân, bị cáo có 05 tiền án, lần phạm tội gần nhất vào năm 2013 bị Tòa án nhân dân Quận B, TP. Hồ Chí M xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm, chấp hành xong bản án vào ngày 05/02/2021, đến nay chưa được xóa án tích.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số 301/M1 ngày 30/5/2022, có chữ ký của Nguyễn Văn M, chữ ký của Nguyễn Thanh H cùng dấu mộc tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.

- 01 (một) phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số 301/M2 ngày 30/5/2022, có chữ ký của Nguyễn Văn M, chữ ký của Nguyễn Thanh H cùng dấu mộc tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T.

- 01 (một) bịch nylon có ghi chữ TRIÊU DƯƠNG NGỌC T.

- 01 (một) bịch nylon màu đen.

- Một đôi dép có dòng chữ Timan.vn đã qua sử dụng.

- Tiền Việt Nam 670.000 đồng gồm các mệnh giá: 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng, 05 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 10.000 đồng, tất cả để trong một phong bì có dán niêm phong, bên ngoài ghi thời gian niêm phong ngày 29/5/2022, có chữ ký của điều tra viên Trần Văn T, chữ ký Lê Thị Phương C, Huỳnh Văn T người chứng kiến, chữ ký Nguyễn Tấn B – Phó trưởng Công an phường B, thành phố Trà V, chữ ký Đoàn Chí M cùng dấu mộc tròn màu đỏ của Công an phường B thành phố T, tỉnh Trà V, ký hiệu T.

- 01 (một) thẻ căn cước công dân số 079077015812 mang tên Đoàn Chí M.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu SAMSUNG, tên thiết bị Galaxy A11, màu xanh dương, loại cảm ứng, số kiểu máy SM-A115F/DS, số sê ri R9JN61FP1AJ, IMEI (khe 1) 356347118399760, IMEI (khe 2) 356348118399768, kèm theo sim số 0903237X (sim 1), 0706406X (sim 2) đã qua sử dụng được niêm phong trong một phong bì màu trắng, bên ngoài có chữ ký của Điều tra viên Lưu Thanh D, Đoàn Chí M, Ngô Tấn Đ cùng dấu mộc tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, ký hiệu Đ1.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, số loại DyLan 150, màu đỏ, số khung: *ZDCKF05A04F074916*, số máy: HI – KF03E *0064575* HI KGG, biển kiểm soát 51S8-X đã qua sử dụng. Qua xác minh, chiếc xe này là của ông Đoàn H, sinh năm 1956, nơi cư trú số , khóm A, phường B, thành phố T, tỉnh T mua lại từ ông Nguyễn Mạnh T ở thành phố Hồ Chí M nhưng chỉ làm giấy viết tay không có sang tên sở hữu. Sau đó, ông H có cho bị cáo M mượn xe để sử dụng làm phương tiện đi lại, việc bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy thì ông H hoàn toàn không biết.

- Đối với người đàn ông tên X – người đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo khai không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể nên chưa thể xác minh, mời làm việc được, khi nào xác minh có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Tại Bản cáo trạng số: 47/CT-VKS-HS ngày 04/10/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Đoàn Chí M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Đoàn Chí M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Chí M từ 06 năm đến 07 năm tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đoàn Chí M đã khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy nên vào khoảng 11 giờ ngày 29/5/2022, bị cáo Đoàn Chí M đã dùng điện thoại liên hệ với người đàn ông tên X tại khu vực huyện C, tỉnh T mua 05 bịch ma túy đá (Methamphetamine) với giá 850.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo điều khiển xe đến trước nhà số A đường Đ, khóm B, phường A, thành phố T, tỉnh T thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Đoàn Chí M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Đoàn Chí M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, ma túy là chất gây nghiện rất độc hại, nó không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng tham gia lao động, học tập, đến sự phát triển bình thường về trí tuệ của người sử dụng, mà nó còn làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác rất nguy hiểm. Bị cáo Đoàn Chí M có nhân thân rất xấu, đã 05 lần bị Tòa án xét xử về các tội “Cướp giật tài sản; Trốn khỏi nơi giam giữ; Mua bán trái phép chất ma túy”, khi chấp hành xong hình phạt tù ra ngoài xã hội bị cáo không chịu cố gắng lao động để tạo lập cho bản thân một nghề nghiệp chân chính. Ngược lại do đua đòi lối sống vật chất và nghiện ma túy, bị cáo tiếp tục thực hiện tội phạm. Hành động của bị cáo không chỉ là tái phạm nguy hiểm mà còn thể hiện bị cáo rất xem thường pháp luật, khước từ sự giáo dục, giúp đỡ của Nhà nước, tạo ảnh hưởng rất xấu đến an ninh trật tự địa phương. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để nhằm răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, giúp Cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án. Nghĩ nên xem đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đoàn H xin nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại DyLan 150 màu đỏ, số khung: *ZDCKF05A04F074916*, số máy: HI – KF03E *0064575* HI KGG, biển kiểm soát 51S8-X. Hội đồng xét xử xét thấy xe mô tô trên ông H cho bị cáo mượn để làm phương tiện đi lại, việc bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy ông H hoàn toàn không biết. Nghĩ nên trả lại cho ông Hân theo quy định của pháp luật.

[5] Về vật chứng: 01 phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số 301/M1 và 01 phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số 301/M2 ngày 30/5/2022 của Phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Trà Vinh; 01 bịch nylon có ghi chữ TRIÊU DƯƠNG NGỌC T; 01 bịch nylon màu đen; 01 đôi dép có dòng chữ Timan.vn đã qua sử dụng; tiền Việt Nam 670.000 đồng; 01 thẻ căn cước công dân số: 079077015812 mang tên Đoàn Chí M; 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG, tên thiết bị Galaxy A11, màu xanh dương, loại cảm ứng, số kiểu máy SM-A115F/DS, số sê ri: R9JN61FP1AJ, IMEI (khe 1) 356347118399760, IMEI (khe 2) 356348118399768, kèm theo sim số 0903237X (sim 1), 0706406X (sim 2) đã qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại DyLan 150 màu đỏ, số khung: *ZDCKF05A04F074916*, số máy: HI- KF03E *0064575* HI KGG, biển kiểm soát 51S8-X đã qua sử dụng. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy, sung quỷ và trả lại cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đoàn Chí M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Chí M 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2022.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số 301/M1 và 01 phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số 301/M2 ngày 30/5/2022 của Phòng Kỹ thuật Công an tỉnh Trà Vinh; 01 bịch nylon có ghi chữ TRIÊU DƯƠNG NGỌC T; 01 bịch nylon màu đen; 01 đôi dép có dòng chữ Timan.vn đã qua sử dụng. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG, tên thiết bị Galaxy A11 màu xanh dương, loại cảm ứng, số kiểu máy SM-A115F/DS, số seri: R9JN61FP1AJ, IMEI (khe 1) 356347118399760, IMEI (khe 2) 356348118399768, kèm theo sim số 0903237X (sim 1), 0706406X (sim 2) đã qua sử dụng. Trả lại bị cáo: tiền Việt Nam 670.000 đồng; 01 thẻ căn cước công dân số: 079077015812 mang tên Đoàn Chí M. Trả lại ông Đoàn H: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại DyLan 150 màu đỏ, số khung: *ZDCKF05A04F074916*, số máy: HI- KF03E *0064575* HI KGG, biển kiểm soát 51S8-X đã qua sử dụng.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Đoàn Chí M nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai; báo cho bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2022/HS-ST

Số hiệu:70/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về