Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Tấn Đ (tên gọi khác: Không có), sinh ngày 12/12/1993 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con lớn nhất; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/01/2021. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Tấn Đ là đối tượng nghiện ma túy, vào khoảng 17 giờ ngày 06/01/2021, khi đang làm việc tại Cảng gạo thuộc khu vực Quận A, thành phố Hồ Chí Minh, Đ gặp và một người tên B (không rõ nhân thân) mua dùm ma túy với số tiền 200.000 đồng, B đồng ý và hẹn Đ 19 giờ cùng ngày tới bến phà C để nhận ma túy.

Đến 19 giờ cùng ngày, Đ đi bộ ra bến phà C thuộc Quận A, thành phố Hồ Chí Minh đứng đợi thì có một người (không rõ nhân thân) đến giao cho Đ 01 gói ma túy và 01 chiếc nỏ thủy tinh. Sau khi mua ma túy xong, Đ lấy một ít ra sử dụng, số còn lại cất giấu vào trong túi quần bên phải. Đến 20 giờ cùng ngày, Đ gặp anh Đỗ Thành Q (sinh năm 1985), ngụ tại khu vực 8, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ là bạn của Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 53 V4-1588 đang trên đường về huyện N nên Đ xin đi nhờ xe. Khi đến quán Internet gần phà C, xã P, huyện N thì Đ xuống xe vào chơi Internet. Đến 02 giờ ngày 07/01/2021, Q quay lại quán Internet rủ Đ đi ăn. Đ điều khiển xe mô tô trên của Q chở theo Q đi ăn, đến đường L, thuộc ấp C, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an xã P phát hiện bắt quả tang cùng tang vật và chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Tang vật thu giữ gồm:

- 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trong túi quần bên phải của Nguyễn Tấn Đ.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia có gắn thẻ sim Viettel của Nguyễn Tấn Đ. Tại bản kết luận giám định số: 70/KLGĐ-PC09 ngày 12/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,30889 gam, loại: Methamphetamine Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 57/CT.VKS-NT ngày 16/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ từ 14 (mười bốn) đến 16 (mười sáu) tháng tù giam.

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Toà tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ký hiệu số: 70/ PC09-GĐMT ngày 12/01/2021 có các chữ ký ghi họ tên: Phạm Thị Hương M, Lê Phạm D và hình dấu tròn màu đỏ Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Trả lại cho bị can Nguyễn Tấn Đ 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim Viettel do không liên quan đến vụ án.

Bị cáo Nguyễn Tấn Đ không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Tấn Đ tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn Đ (đủ năng lực trách nhiệm hình sự) đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào ngày 06/01/2021, tại ấp C, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Tấn Đ đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng 0,30889 gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đã có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Nguyễn Tấn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ. Tuy nhiên, bị cáo khai việc làm và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Tấn Đ không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, - Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định ký hiệu số: 70/ PC09-GĐMT ngày 12/01/2021 do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai niêm phong.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn Đ 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim Viettel của Nguyễn Tấn Đ do không liên quan đến vụ án.

[8] Đối với Đỗ Hồng Q là người đi cùng xe với Đ, do Q không biết Đ có cất giấu ma túy trong người nên không phải là đồng phạm trong vụ án. Tuy nhiên, Q là người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, vì vậy ngày 07/01/2021 Công an xã P đã ra quyết định số 02/QĐ-UBND đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đồng Nai để quản lý cắt cơn, giải độ, tư vấn tâm lý trong thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Đỗ Hồng Q là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Đối với tên B và một người không rõ nhân thân đã có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Tấn Đ, do chưa rõ nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tấn Đ phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Đ 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạ tù tính từ ngày 07/01/2021.

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong mẫu vật sau giám định ký hiệu số: 70/ PC09-GĐMT ngày 12/01/2021 do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai niêm phong.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn Đ 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia có gắn sim Viettel của Nguyễn Tấn Đ do không liên quan đến vụ án.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch đang lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/4/2021).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Tấn Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về