Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2021/TLST- HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Dương Toàn T, sinh năm 1984 (tên gọi khác: không); HKTT: Khu phố T.B, phường Đ.K, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn Th, sinh năm 1962 và bà Lê Thị H, sinh năm 1962; Có vợ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1985 (đã ly hôn), Có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2009;

Tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: - Bản án số 45/2013/HSST ngày 21/3/2013 của Tòa án nhân dân quận L.B, thành phố Hà Nội xử phạt T 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng theo khoản 1 Điều 230 Bộ luật hình sự năm 1999. T chấp hành xong Bản án ngày 01/02/2015.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 78 ngày 02/10/2015 của Công an huyện T.D, tỉnh Bắc Ninh xử phạt T 1.500.000đ về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. T đã chấp hành xong quyết định năm 2015.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2020. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 20 phút ngày 05/10/2020, tại phòng 502 nhà nghỉ M.N thuộc khu phố X,Đ, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh do chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1970 làm chủ và anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1994 là quản lý, tổ công tác Công an phường Đ.B, thị xã T.S tiến hành kiểm tra hành chính đã phát hiện và bắt quả tang Dương Toàn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, T khai nhận 02 túi nilon trên là ma túy đá và ngựa của T với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 02 túi nilon màu trắng, bên trong 01 túi chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng.

Tại bản kết luận giám định số 641/KLGĐMT –PC09 ngày 08/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

“- Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 1,0137 gam; là ma túy; loại ma túy:Methamphetamine.

- 01 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng: 0,0982 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine” Với nội dung trên, bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 13/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Dương Toàn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bản thân bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy từ năm 2018 nên chiều ngày 05/10/2020, bị cáo đi xe buýt từ nhà đến quận L.B, thành phố Hà Nội với mục đích để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Do trước đó, bị cáo được một người bạn chỉ cho tại đây có người bán ma túy. Khi đến chợ L.B, bị cáo xuống xe gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 02 túi nilon màu trắng, cụ thể bên trong 01 túi chứa tinh thể màu trắng và 01 túi chứa 01 viên nén hình tròn màu hồng là ma túy ngựa với giá 700.000đ. Bị cáo cất giấu 02 túi ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, bị cáo và bạn là Ngô Văn Tr, sinh năm 1991, HKTT: khu phố T.C, phường Đ.B, thị xã T.S đến phòng 502 nhà nghỉ M.N thuộc khu phố X. Đ, phường Đ.B để chơi với bạn là Hà Thị Th, sinh năm 1989; HKTT: bản C.V, xã C.S, huyện M.C, tỉnh Sơn La (tên gọi khác là Ch). Khi đến nơi, bị cáo và anh Tr đi vào phòng 502 thì thấy chị Th không có trong phòng, đúng lúc này lực lượng Công an đến kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ, niêm phong vật chứng. Việc bị cáo tàng trữ ma túy trong người Tr không biết, ngoài số ma túy bị thu giữ bị cáo không bị thu giữ gì khác.

Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Toàn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1, 5 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Toàn T từ 24 đến 27 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/10/2020.

Phạt bổ sung bị cáo từ 7.000.000 đến 10.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

định.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy còn lại sau giám Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Vào hồi 22 giờ 20 phút ngày 05/10/2020, tại phòng 502 nhà nghỉ M.N thuộc khu phố X.Đ, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh tổ công tác Công an phường Đ.B, thị xã T.S bắt quả tang Dương Toàn T có hành vi tàng trữ trái phép 1,1119 gam chất Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Dương Toàn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố.

[2]Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là cầu nối của đại dịch HIV. Đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, bị cáo có thời gian phục vụ trong quân đội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân, bị cáo không có nghề nghiệp, bản thân không có tài sản riêng vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Liên quan trong vụ án này còn có người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo T tại khu vực quận L.B, thành phố Hà Nội và người bạn đã chỉ nơi mua ma túy cho T. Quá trình điều tra, bị cáo T khai nhận không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Ngô Văn Tr là người đi cùng T, chị Hà Thị Th là người thuê phòng 502 của nhà nghỉ M.N và chị Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Anh T, những người này khai không biết việc bị cáo T tàng trữ trái phép chất ma túy tại nhà nghỉ. Do vậy, co quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S không đề cập xử lý là phù hợp quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Dương Toàn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Dương Toàn T 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/10/2020.

Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh (theo biên bản giao nhận vật chứng).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về