Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 70/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2021/HSST ngày 28 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2021/QĐXXST-HS ngày 06/8/2021 đối với bị cáo :

Họ và tên: Nguyễn Văn C, sinh năm 1983, tại huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M và bà Bùi Thị V; có vợ là Đỗ Thị N và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án: Bản án số 01/2017/HSST ngày 17/01/2017 của TAND huyện Y xử phạt 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Bản án số 31/2019/HSST ngày 26/9/2019 của TAND huyện Y xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 18/7/2019, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không;

Lch sử bản thân: Quyết định số 2248 ngày 19/6/2010 của UBND huyện K đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 19/6/2012; Quyết định số 501 ngày 30/7/2013 của UBND quận 12, TP. Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 17/7/2015; Quyết định số 15 ngày 26/12/2016 của TAND huyện K đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, C chưa nhận được quyết định vì thời gian này đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh, quyết định chưa phát sinh hiệu lực pháp luật; Quyết định số 1899 ngày 10/6/2013 của UBND huyện K đưa đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, không có hồ sơ lưu trữ (khoảng thời gian này C đang chấp hành quyết định số 501 ngày 30/7/2013 của UBND quận 12, TP. Hồ Chí Minh).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/4/2021, chuyển tạm giam ngày 23/4/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: chị Đỗ Thị N, sinh năm 1984; nơi cư trú: Xóm 2, xã Y, huyện K, tỉnh Ninh Bình (có mặt).

* Người làm chứng: anh Dương Văn H và anh Đỗ Văn C1 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 10 giờ ngày 16/4/2021, Nguyễn Văn C điều khiển xe mô tô đi từ nhà đến khu vực thuộc xóm 12, xã Đ tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 40 tuổi, hỏi và mua được của người này 01 gói ma túy với giá 200.000đ rồi cầm ở tay trái điều khiển xe đi về. Khi đến bờ sông Ân, thuộc khu vực chợ N, thị trấn P, bị cáo dừng xe định mở gói ma túy ra xem thì bị tổ công tác Công an huyện K phát hiện, bắt quả tang, thu giữ của bị cáo gói nhỏ nêu trên, bị cáo khai nhận đó là gói Heroine bị cáo vừa mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra gói nhỏ thu giữ của bị cáo được gói ngoài bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, cân xác định trọng lượng chất bột bên trong có trọng lượng 0,31 gam ký hiệu M, gửi toàn bộ đi giám định.

Bản kết luận giám định số 321/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi tới giám định ký hiệu M có khối lượng 0,3025gam là ma túy, loại Heroine.

Bản cáo trạng số 71/CT-VKS ngày 26/7/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 21 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/4/2021. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01phong bì ghi số 321/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của đại diện bên giao, bên nhận và đóng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Ninh Bình, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định là 0,2219gam Heroine cùng vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 vỏ giấy mầu trắng có dòng kẻ đã thu giữ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C 01 chứng minh nhân dân số 037083000434 mang tên Nguyễn Văn C. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên và không có ý kiến gì khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố Tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Biên bản cân xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định, Kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo và lời khai của người làm chứng đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương, cụ thể: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 16/4/2021 tại khu vực bờ sông Ân, thuộc khu vực chợ N, thị trấn P, huyện K, tỉnh Ninh Bình bị cáo Nguyễn Văn C có hành vi cất giấu trong người 0,3025gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật (Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ). Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Từ sự phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Nguyễn Văn C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như đã được viện dẫn. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền án và lịch sử bản thân đã nhiều lần bị xử lý hành chính.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đang có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nay lại phạm tội do cố ý. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, tự giác giao nộp gói Heroine cho cơ quan công an. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Hi đồng xét xử xét thấy, sau khi đối chiếu về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo, thì hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, gia đình thuộc diện hộ cận nghèo, hành vi phạm tội của bị cáo chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy, không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc Heroine: Bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi ở khu vực xóm 12, xã Đ, huyện K; bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được. Vì vậy, cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đi với 01 xe mô tô BKS 35F8-3189 và đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn T là xe bị cáo sử dụng đi mua Heroine, bị cáo khai mua của người đàn ông không quen biết ở thành phố T vào đầu năm 2020 với giá 2.000.000đ. Qua xác minh chiếc xe này không nằm trong hệ thống tang vật của vụ án, xác minh tại địa chỉ ghi trong đăng ký xe không có người nào tên Nguyễn Văn T, do đó cơ quan điều tra công an huyện K đã tách phần tài liệu liên quan đến chiếc xe và giấy tờ xe để điều tra xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đi với 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn C, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo, vì vậy cần trả lại cho bị cáo.

Đi với 01 phong bì ghi số 321/KLGĐ-PC09-MT bên trong có vật chứng còn lại sau giám định là 0,2219gam Heroine cùng vỏ niêm phong; 01 phong bì niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 vỏ giấy trắng có dòng kẻ thu giữ khi bắt quả tang bị cáo, đây là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, cần tịch thu cho tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ cận nghèo, nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 16/4/2021.

2. Về xử lý vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C 01 chứng minh nhân dân số 037083000434 mang tên Nguyễn Văn C;

- Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì ghi số 321/KLGĐ-PC09-MT trên giáp lai có chữ ký của đại diện bên giao, bên nhận và đóng dấu của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, bên trong có vật chứng còn lại sau giám định là 0,2219gam Heroine cùng vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong, trên phong bì có dấu niêm phong và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong, bên trong có vỏ phong bì niêm phong ban đầu và 01 vỏ giấy mầu trắng có dòng kẻ đã thu giữ của bị cáo.

(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 28/7/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K với Chi cục THADS huyện K)

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn C.

Án xử sơ thẩm công khai bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về